Header Ads

Tin Hot

Trường phái phong thủy

truong-phai-phong-thuy
Trường phái phong thủy

Trong phong thủy có nhiều trường phái, trong đó phải kể đến ba phái lớn có tầm ảnh hưởng quan trọng

1_ Phái loan đầu : lấy hình thế làm trọng. Như dựa vào sông núi bên ngoài và cách mở cổng cửa cũng như cách bố trí bên trong...
2_ Phái bát trạch : Dựa vào năm sinh của mỗi người mà chia thành đông tứ mệnh và tây tứ mệnh, lại chia các hướng nhà thành đông tứ trạch và tây tứ trạch. Người đông tứ mệnh thì hạp với nhà đông tứ trạch và người tây tứ mệnh thì hạp với nhà tây tứ trạch.....
3_ Phái Huyền không : dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo vòng lường thiên xích trên đồ hình bát quái mà định sự cát hung cùa từng căn nhà hay mộ phần...
Nhận thấy môn huyền không có những ứng dụng hữu hiệu cho cách chọn sơn lập hướng cho nhà ở và mộ phần.

Về thời gian xuất hiện cùa huyền không thì rất khó xác định. Chỉ biết vào thời tàn Đường ( khoảng thế kỷ IX sau công nguyên) có một phong thủy sư lỗi lạc là Dương quân Tùng có viết một số sách như: "Thiên ngọc kinh", "Thanh nang áo ngữ", "Đô thiên bảo chiếu". Về sau này hầu hết các nguyên lý căn bản đều được trích dẫn từ các sách này. Nên Cũng có thể coi Dương quân Tùng là người tạo dựng cơ sở cho sự phát triển của phái huyền không. Đến sau này các danh sư như: Ngô cảnh Loan đời Tống,Tưởng đại Hồng đời Minh, Chương trọng Sơn đời Thanh đã phát triển môn này thành một trường phái rõ rệt. Tuy nhiên, vào thời đó các nguyên lý đều được giữ hết sức bí mật chỉ được chân truyền. Mãi đến cuối đời Thanh có một danh sư là Thẩm trúc Nhưng cho ra đời cuốn "Thẩm Thị Huyền Không" thì môn này mới được biết đến một cách công khai. Tới ngày nay môn Huyền không đã được phát triển rộng rải trong đại chúng và có những kết quả hữu hiệu cho những người yêu thích môn phong thủy này.

Lạc thư và Lượng thiên Xích 

Lạc thư 


Tương truyền vua Đại Vũ khi xưa đi trị thủy trên sông Lạc thì gặp rùa thần nổi lên, trên lưng có hình Cửu tinh. Vua Đại Vũ cho sao chép lại và gọi đó là Lạc thư. Khẩu quyết của Lạc thư là: "Đới Cửu, lý Nhất; tả Tam, hữu Thất; Nhị-Tứ vi kiên; Lục- Bát vi túc; Ngũ cư trung vị". Có nghĩa là: Trên đội 9, dưới đạp 1; bên trái 3, bên phải 7; 2 vai là 2 và 4; 2 chân là 6 và 8; còn 5 nằm chính giữa.
Dựa vào Lạc thư, sau này vua Văn Vương nhà Chu mới đặt ra Hậu thiên Bát quái và định phương vị cho Cửu tinh như sau:
- Số 9 nằm ở trên tức hướng NAM. Vì phương NAM nóng, thuộc quẻ Ly-Hỏa nên số 9 mang hành Hỏa.
- Số 1 nằm ở dưới nên thuộc hướng BẮC. Vì phương Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ Khảm-Thủy nên số 1 mang hành Thủy.
- Số 3 nằm bên trái thuộc phương ĐÔNG. Vì phương ĐÔNG là quẻ CHẤN-Mộc, nên số 3 mang hành Mộc.
- Số 7 nằm bên phải thuộc phương TÂY. Vì phương TÂY là quẻ ĐOÀI-Kim, nên số 7 mang hành Kim.
- Số 2 là "vai” bên phải, nên nằm tại phía TÂY NAM. Vì phía TÂY NAM thuộc quẻ KHÔN-Thổ, nên số 2 mang hành Thổ.
- Số 4 là "vai” bên trái, nện nằm tại phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN-Mộc, nên số 4 mang hành Mộc.
- Số 6 là "chân” bên phải, nên nằm tại phía TÂY BẮC. Vì TÂY BẮC thuộc quẻ CÀN-Kim, nên số 6 có hành Kim.
- Số 8 là "chân” bên trái, nên nằm tại phía ĐÔNG BẮC. Vì phía ĐÔNG BẮC thuộc quẻ CẤN-Thổ, nên số 8 mang hành Thổ.
- Số 5 nằm ở chính giữa (tức trung cung). Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Vì thế nên số 5 cũng mang hành Thổ.

Do đó, phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên Bát quái như sau:

đông nam..............nam...............tây nam
............4................9................2

đông.....3................5................7 tây

............8................1................6
đông bắc.............bắc..............tây bắc


Đây chính là những phương vị "nguyên thủy” của Cửu tinh trong Lạc thư (hay Hậu thiên bát quái). Nhưng khi có những thay đổi về không gian và thời gian thì Cửu tinh cũng sẽ thay đổi hoặc di động theo 1 qũy đạo nhất định. Quỹ đạo đó được gọi là vòng Lượng thiên Xích.

Cửu tinh và ý nghĩa

- Số 1: Nhất bạch hay tham lang: Đệ nhất cát tinh. Nếu đương vượng mà hình thế loan đầu có thủy động thì khoa cử đỗ đạt, sinh con trai thông minh trí tuệ. Nếu suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi, mang nhiều bệnh tậ về huyết, thận hư...
* về ngũ hành: thuộc thuỷ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : Thận, tai, máu huyết
* về người : con trai thứ
* về tính chất : thuộc dương
- Số 2 : Nhị hắc hay cự môn : Hung tinh. Nếu vượng thì giàu có, điền sản phát mạnh, nhân khẩu hưng vượng lại phát quí về binh nghiệp. Nếu suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểm, keo kiệt, khó sinh đẻ, có beênh về bụng. Trong nhà thường phát sinhbe65nh hoạn liên miên.
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu đen
* Về cơ thể : bụng và dạ dày
* về người: mẹ hoặc vợ trong gia đình
* về tính chất : thuộc âm
- Số 3 : Tam bích hay lộc tồn : Hung tinh. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng, con cái dòng trưởng rất hưng thịnh. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khắc vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp.

* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh lá cây
* Về cơ thể : mật, vai và tay
* về người: con trai trưởng
* về tính chất : thuộc dương
- Số 4 : Tứ lục hoặc văn xương : Cát tinh. Vượng thì văn chương lừng danh, khoa cử đỗ đạt, con gái dung mạo đoan trang lấy được con nhà quyền quí. Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn, đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá hoại, phải lang thang phiêu bạt.
* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh dương
* Về cơ thể : đùi và 2 chân
* về người: con gái trưởng
* về tính chất : thuộc âm
- Số 5 : Ngũ hoàng hoặc Liêm trinh :Đạt sát tinh. Vượng thì tài đinh đại phát. Nếu suy tử thì bất kể được sinh hay bị khắc đều rất xấu ví vậy nó tịnh không nên động. Nếu gặp sao thái tuế tới thì tính hung càng phát mạnh làm tổn đinh, phá tài , nhẹ thì ốm đau, nặng thì mất người
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu vàng
* Về cơ thể : không
* về người: không
- Số 6 : Lục bạch hoặc vũ khúc : Cát tinh. Vượng thí quyền uy , làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giáu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì cô độc hoặc chết trong binh đao, người nhà thường góa bụa, có nhiều quả phụ.
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu trắng bạc
* Về cơ thể : đầu, mũi, cổ, xương, ruột già
* về người: cha hoặc chồng trong gia đình
* về tính chất : thuộc dương
- Số 7 : Thât xích hoặc phá quân : tặc tinh. Vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận hay bị giam cầm, gia đạo không yên có thể bị hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu đỏ
* Về cơ thể : phổi, miệng, lưỡi
* về người: con gái út
* về tính chất : thuộc âm
- Số 8 : Bát bạch hoặc tả phù: Cát tinh. Vượng thì trung hiếu, phú quí dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc của tổ tiên. Suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : lưng, ngực và lá lách.
* về người: con trai út
* về tính chất : thuộc dương
- Số 9 : Cửu tử hay hữu bật : trung tính. vượng thì văn chương lừng lẫy, con cháu dòng giữa được hưởng phú quí. Suy thì hỏa tai hoặc tai họa chốn quan trường, bị bệnh về máu huyết, thần kinh, mắt hoặc sanh đẻ khó.
* về ngũ hành: thuộc hoả
* Về màu sắc: màu đỏ tía
* Về cơ thể : mắt, tim, ấn đường
* về người: con gái giữa
* về tính chất : thuộc âm
Còn như thế nào là vượng hay suy sẽ phân tích ở phần sau.

Lượng thiên xích

Là sự di chuyển của cửu tinh trong lạc thư hay hậu thiên bát quái còn gọi là "Cửu tinh đăng quái"
1- Lượng thiên xích thuận:
đông nam.............nam.............tây nam
............9..............5..............7

đông.....8...............1..............3...tây

...........4................6..............2
đông bắc...............bắc...............tây bắc
(1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC.
(2) Từ TÂY BẮC lên TÂY.
(3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC.
(4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM.
(5) Từ NAM xuống BẮC.
(6) Từ BẮC lên TÂY NAM.
(7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG.
(8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM.
(9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung.

2- Lượng thiên xích nghịch
đông nam..................nam...............tây nam
............2....................6................ ...4

đông.....3....................1................. ..8...tây

............7....................5................ ...9
đông bắc...................bắc.................tây bắc

(1) Từ trung cung lên ĐÔNG NAM
(2) Từ ĐÔNG NAM xuống ĐÔNG
(3) Từ ĐÔNG lên TÂY NAM
(4) Từ TÂY NAM xuống BẮC
(5) Từ BẮC lên NAM.
(6) Từ NAM xuống ĐÔNG BẮC.
(7) Từ ĐÔNG BẮC sang TÂY.
(8) Từ TÂY xuống TÂY BẮC.
(9) Từ TÂY BẮC trở về trung cung.
Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm-dương của Tam nguyên long.

ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH

Âm dương

Âm dương là hai yếu tố quan trọng trong cuộc sinh thành tiến hoá của vạn vật. Ý nghĩa tuy trái ngược nhau nhưng âm dương luôn luôn dung hoà lẫn nhau, bổ túc cho nhau,…
Âm dương là lưỡng nghi, phân ra làm 4 gọi là tứ tượng:
Thiếu dương: Khí dương còn non.
Thái dương : Dương cực mạnh
Thiếu âm : Âm mới sinh
Thái âm : Âm dày đặc.
Đặc tính :
Dương : Động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên, khô ráo, cứng, mạnh, tiến đi xa, mau lẹ, mở. số lẻ, nam, ngày, mặt trới, hoả, bên trái cơ thể.
Âm : Tĩnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới , ẩm ướt, mềm, yếu, lùi trở lại, chậm chạp, đóng, số chẵn, nữ, đất, đêm, mặt trăng, thuỷ, bên phải cơ thể
Trong sự biến hoá tuần hoàn : Âm mạnh thì dương yếu; dương mạnh thì âm yếu
Âm dương như 2 cực nam châm, cùng tính thì chống đẩy nhau, khác tính thì thu hút lẫn nhau. Nhưng trong mọi vật hai yếu tố ấy luôn dung hoà lẩn nhau, tương giao cùng nhau. Cả hai đóng vai trò quan tro5ngtrong cuộc sinh thành của vạn vật.
Ngũ hành
Khí âm dương luân chuyển biến hoá mà tạo ra ngũ hành. Năm hành của ngũ hành được hình thành qua 2 giai đoạn
1- Giai đoạn sinh: Nói về số thì : Trời 1 sinh thuỷ, đất 2 sinh hoả, trời 3 sinh mộc, đất 4 sinh sinh kim, trời 5 sinh thổ. Vậy số 1,2,3,4,5 là số sinh của ngũ hành
2- Giai đoạn thành; Nói về số thì ;
-Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành thuỷ (1-6 là thuỷ tiên thiên)
- Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành hoả (2-7 là hoả tiên thiên)
- trời 3 sinh mộc, đất 8 thành mộc (3-8 là mộc tiên thiên)
- Đất 4 sinh kim, trời 9 thành kim (4-9 là kim tiên thiên )
- Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành thổ (5-10 thành thổ)
Phương hướng;
Mộc ở phương đông, hoả ở phương nam, thổ ở trung ương, kim ở phương tây, thuỷ ở phương bắc. Đây chính là phương vị ngũ hành trong hà đồ.
Ngũ khí ;
- Phong khí ( gió)thuộc mộc
- Thử khí và nhiệt khí( khí nóng) thuộc hoả
- Thấp khí(khí ẩm ướt) thuộc thổ
- Táo khí (khí khô) thuộc kim
- Hàn khí ( khí lạnh)
Tạng phủ
- Kim: đầu, họng, lưỡi, phổi
- Mộc: Lông, tóc, tay chân, gan, mật
- Thuỷ: Máu, mồ hôi, nước mắt, tai, thận
- Hoả: Mắt, tim
- Thổ: dạ dày, lá lách, lưng, bụng
Hình dáng:
- Kim: Tròn, dày
- Mộc: hẹp dài
- Thuỷ : Khúc khuỷu
- Hoả: nhọn sắc
- Thổ: vuông vức
Quẻ dịch;
- Kim: 2 quẻ CÀN, ĐOÀI
- Mộc: 2 quẻ CHẤN TỐN
- Thuỷ: quẻ KHẢM
- Hoả: Quẻ LY
- Thổ; 2 quẻ KHÔN, CẤN
Thiên can:
- Kim: canh, tân
- Mộc: Giáp, ất
- Thuỷ: Nhâm, quí
- Hoả: Bính đinh
- Thổ: Mậu, kỷ
Địa chi:
- Kim: Thân, dậu
- Mộc: dần, mão
- Thuỷ: Hợi, tý
- Hoả: Tỵ, ngọ
- Thổ : Thìn, tuất, sửu, mùi
Sinh khắc của ngũ hành
Sinh:
- kim sinh thuỷ
- thuỷ sinh mộc
- mộc sinh hoả
- hoả sinh thổ
- thổ sinh kim
Khắc:
- Kim khắc mộc
- Mộc khắc thổ
- Thổ khắc thuỷ
- Thuỷ khắc hoả
- Hoả khắc kim
Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy.

Ngũ hành phản sinh

Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.

Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:
- Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.
- Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.
- Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.
- Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.
- Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.

Ngũ hành phản khắc

Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc.

Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là:
- Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.
- Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.
- Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt.
- Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn.
- Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.


Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa. Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7. Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc. Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi.

Trên đây là những yếu tố căn bản tối thiểu mà người học huyền không phải nắm vững để ứng dụng sau này

Trong thời gian chúng ta đang tiếp tục tìm hiểu về Huyền không, tôi xin đưa ứng dụng về ảnh hưởng của niên, nguyệt phi tinh đối với nhà cửa.
Bài viết Của bác Bình nguyên Quân và bác Long Lý
Phong thủy Năm Đinh Hợi (2007)
Thông thường, vào mỗi dịp đầu năm, trên các báo chí thường xuất hiện những bài viết nói về chọn hướng xuất hành, hoặc Tử vi trong năm..., mà rất ít (hay hầu như không có) những bài viết về Phong thủy cho năm đó. Đây là 1 thiếu sót rất lớn, vì ảnh hưởng của Phong thủy không phải chỉ cố định, mà cũng biến chuyển theo từng năm, từng tháng, thậm chí đến từng ngày hay từng giờ như Tử vi.

Mặt khác, mức độ ảnh hưởng của Phong thủy lên từng nhà (và những người sống trong căn nhà đó) còn mãnh liệt hơn những “sao” trong Tử vi rất nhiều. Cho nên nếu không biết đến Phong thủy, mà chỉ lo cúng sao giải hạn thì nhiều khi vẫn không tránh nổi tai họa. Nhất là đối với những ai muốn xây nhà, dọn nhà, hay tu sửa nhà cửa trong năm, nếu không biết được phương hướng hung họa để mà phòng tránh, thì sau khi xây, sửa nhà xong sẽ có thể gặp những tai họa lớn. Thậm chí ngay cả những người không xây, sửa nhà cửa gì cả, nhưng do phương vị giường ngủ, bàn làm việc... nằm tại những khu vực bị khí hung, sát của năm đó chiếu tới thì vẫn có thể bị bệnh tật, tai họa, thưa kiện hoặc mất việc, mất chức... Do đó, biết được vận khí Phong thủy trong năm là 1 vấn đề quan trọng, đáng được mọi người quan tâm đến.

Thật ra - đối với Phong thủy – khi nói đến vận khí trong 1 năm thì có rất nhiều yếu tố, cả về Thiên văn lẫn Địa lý (vì Phong thủy bao gồm cả 2 lãnh vực này). Tuy nhiên, đối với phái Phong thủy Huyền Không, những yếu tố có ảnh hưởng mạnh tới vận khí của con người trong năm là phương vị của Phi tinh, của Thái Tuế, Tuế Phá và Tam sát. Đó là 4 yếu tố quan trọng nhất, có ảnh huởng mạnh nhất đối với từng căn nhà và mỗi người sống trong căn nhà đó, mà chúng ta sẽ lần lượt khảo sát dưới đây.

Phi tinh 

Là sự di chuyển của 9 sao (mỗi sao được biểu thị bằng 1 con số, từ 1 tới 9), trên lạc thư(hay Hậu thiên Bát quái). Trong 9 sao đó, sao Ngũ Hoàng (số 5) và Nhị Hắc số 2 là 2 hung thủ cực kỳ nguy hiểm, đi đến đâu sẽ gây tai họa, bệnh tật tới đó, nên cần đặc biệt chú ý tới.

Sao Ngũ Hoàng: còn được gọi là “Đô thiên Sát” hay “Chính quan Sát”, là sát khí mạnh nhất trong tất cả mọi thần sát. Nó đi đến đâu thì sẽ gây ra hung họa tới đó. Khẩu quyết Tử Bạch viết:” Chính Sát là Ngũ Hoàng, chiếu đến bất cứ đâu cũng gây tổn thương cho con người”. Do đó, khu vực mà có sao Ngũ Hoàng bay đến trong năm thì cần phải né tránh, chứ không thể xung phạm. Nếu xung phạm thì lập tức sẽ có những biến động, hoặc tai họa nguy hiểm, có thể làm chết người.

Vào năm ĐINH HỢI (2007), sao Ngũ Hoàng sẽ bay đến khu vực phía ĐÔNG BẮC. Cho nên đối với nhà cửa thì vào năm 2007, khu vực phía ĐÔNG BẮC của căn nhà cần phải giữ yên tĩnh, chứ không thể động thổ (dĩ nhiên là làm cỏ, trồng rau... tức là những việc nhỏ nhặt thì không sao), đập phá tu sửa nhà hay chặt hoặc trồng cây cối lớn. Nếu làm những việc đó tức là đã xung phạm Ngũ Hoàng, tai họa sẽ khó lòng tránh khỏi.

Đối với những nhà có tọa, hướng là ĐÔNG BẮC thì lại càng phải thận trọng trong việc tu sửa những khu vực này. Đối với những người muốn mua nhà trong năm ĐINH HỢI thì cần phải tránh những nhà có tọa hoặc hướng đó (bất kể có hạp với mạng của mình hay không). Riêng đối với từng cá nhân thì những người có cửa phòng ngủ nằm tại khu vực phía ĐÔNG BẮC của căn phòng (tính từ tâm phòng), hoặc có bếp, buồng tắm, cầu thang... nằm tại khu vực phía ĐÔNG BẮC của phòng ngủ thì đều có bệnh tật hoặc tai họa. Muốn hóa giải thì cách tốt nhất là tạm dời qua phòng khác cho hết năm (nhất là với những người lớn tuổi), hoặc là treo windchime (phong linh hay chuông gió), hay đặt 1 cặp kỳ lân bằng đồng (loại nhỏ) tại cửa phòng và cầu thang, hoặc dùng hũ thủy tinh, bên trong có hòa nước với muối biển thật mặn, rồi bỏ vào trong đó 6 đồng tiền bằng bạc hay đồng, đem để trong nhà bếp hay buồng tắm, nếu những nơi nói trên nằm tại khu vực phía ĐÔNG BẮC của căn phòng. Ngoài ra, trong năm 2007 còn cần tránh đi về những nơi nằm tại phía ĐÔNG BẮC hoặc TÂY NAM so với nơi cư trú của mình, nhất là với những người đang gặp lúc vận hạn xấu.

Sao Nhị Hắc: còn được gọi là sao Bệnh Phù, vì bản chất của nó là gieo rắc bệnh tật triền miên. Tuy nhiên, vì trong năm ĐINH HỢI, sao Nhị Hắc nhập trung cung, mức độ tai họa của nó cũng đã giảm thiểu nhiều nên cũng không còn đáng sợ nữa.

Ngoài 2 sao nói trên thì còn 7 sao khác, nhưng những sao này cần phải phối hợp với vận khí tốt xấu của từng căn nhà mới có thể giải đoán chính xác, cho nên không thể nói hết ra ở đây.


Thái Tuế

Là Mộc tinh (hay Jupiter), tức là hành tinh lớn nhất trong Thái Dương Hệ, và cũng là hành tinh có ảnh hưởng mạnh nhất đối với quả đất và con người. Đối với Phong thủy (cũng như Bát tự) Thái Tuế là chúa tể của 1 năm, nó đi đến đâu sẽ hút hết dương khí về phía đó, cho nên phương nó tới cũng cần phải tránh, chứ không thể xung phạm. Nếu xung phạm thì bệnh tật, tai họa, thị phi, quan tụng hay mất chức, mất việc... không thể tránh khỏi.

Vào năm 2007, sao Thái Tuế sẽ đến khu vực phía TÂY BẮC. Cho nên đối với nhà cửa thì không được đập phá, tu sửa, động thổ... tại khu vực phía TÂY BẮC của căn nhà, nhất là với những nhà có hướng TÂY BẮC thì lại càng phải kiêng kỵ. Riêng đối với những người sinh năm TỴ, hay tháng TỴ, hoặc ngày, giờ TỴ mà có nhà hướng TÂY BẮC thì cần phải cẩn thận trong vấn đề xử dụng cửa trước mà ra, vào nhà (người mà trong năm, tháng, ngày, giờ lại có 2, 3 TỴ thì càng nguy hiểm, người sinh ngày TỴ cũng thế), nhất là nếu cửa trước lại nằm trong khoảng từ 322 độ 5 đến 337 độ 5 (tính từ tâm nhà). Đó đều là những trường hợp trực xung với Thái Tuế nên tai họa rất nặng, có thể tán gia, bại sản hoặc vong mạng, cho nên cần phải tìm những cửa khác trong nhà mà dùng. Nếu nhà không có cửa nào khác thì nên đi xa nhiều, nhất là trong những tháng 4 và 10 âm lịch.

Ngoài vấn đề đó ra thì còn phải để ý đến phương vị của giường ngủ, nếu nó nằm tại khu vực phía TÂY BẮC của căn nhà thì cần phải dời đi nơi khác, kẻo nếu không thì dễ bị mất việc, hoặc gặp nhiều trắc trở trong năm, sức khỏe không tốt... Trong vấn đề du lịch hoặc đi chơi xa cũng cần tránh đi tới những nơi thuộc khu vực phía TÂY BẮC so với nhà mình ở, đặc biệt là với những người sinh vào những năm, tháng, ngày, giờ TỴ. Riêng đối với vấn đề mua nhà hoặc xây nhà trong năm 2007 thì vẫn có thể chọn nhà hướng TÂY BẮC, nhưng cần phải biết chọn đúng độ hướng, cũng như thiết kế căn nhà và địa thế bên ngoài phù hợp thì mọi sự cũng sẽ được tốt đẹp.

Tuế Phá

Phương vị đối nghịch với Thái Tuế là Tuế Phá. Tuế Phá sở dĩ độc hại là vì khu vực của nó chỉ toàn là âm khí, cho nên mới dễ phát sinh ra nhiều tai họa. Mà vì năm nay, Thái Tuế tới khu vực phía TÂY BẮC, nên Tuế Phá sẽ ở khu vực phía ĐÔNG NAM. Do đó, đối với nhà cửa thì không nên động thổ hay tu sửa, hoặc mở rộng khu vực này của căn nhà, kẻo nếu không sẽ có thể bị những tai họa như ly dị, mất việc, thị phi, kiện tụng, bệnh tật, thậm chí có thể chết người trong nhà... Nếu giường ngủ mà nằm tại khu vực phía ĐÔNG NAM trong nhà cũng cần được dời đi chỗ khác, kẻo nếu không thì tai họa cũng sẽ tới cho những ai nằm tại đó. Đối với những người sinh vào các năm, tháng, ngày, giờ TỴ thì chẳng những là không nên dùng cửa phía TÂY BẮC, mà cũng cần tránh luôn cả những cửa nằm tại phía ĐÔNG NAM nữa.

Về vấn đề du lịch hoặc đi xa thì cũng giống như Thái Tuế là không nên đi về những nơi thuộc khu vực phía ĐÔNG NAM so với căn nhà mình ở, nhất là với những người sinh vào các năm, tháng, ngày, giờ TỴ (đặc biệt là ngày TỴ) hoặc những ai đang cảm thấy vận số không được may mắn lắm. Về vấn đề mua nhà hoặc xây nhà thì vẫn có thể chọn nhà hướng ĐÔNG NAM, nhưng cũng giống như với trường hợp của sao Thái Tuế ở phía TÂY BẮC là phải biết chọn đúng độ hướng, cũng như thiết kế căn nhà và địa thế bên ngoài phù hợp thì mọi sự vẫn được tốt đẹp.

Tam Sát

Là sự xung khắc của phương vị đối nghịch với Tam hợp Thái Tuế tạo ra. Vì lực xung khắc này rất mạnh, cho nên cần phải tránh, chứ không thể xung phạm. Nếu xung phạm thì người trong nhà sẽ có bệnh tật hoặc bị hình thương, nếu nặng có thể đi tới tử vong.

Cách tính phương vị của Tam Sát theo từng năm như sau:
- Những năm THÂN-TÝ-THÌN thì Tam Sát tại 3 phương TỴ-NGỌ-MÙI nơi phía NAM.
- Những năm DẦN-NGỌ-TUẤT thì Tam Sát tại 3 phương HỢI-TÝ-SỬU ở phía BẮC.
- Những năm HỢI-MÃO-MÙI thì Tam Sát tại 3 phương THÂN-DẬU-TUẤT ở phía TÂY.
- Những năm TỴ-DẬU-SỬU thì Tam Sát tại 3 phương DẦN-MÃO-THÌN nơi phía ĐÔNG.

Cho nên trong năm ĐINH HỢI (2007) thì Tam Sát sẽ là 3 phương THÂN-DẬU-TUẤT nơi phía TÂY. Vì vậy, đối với nhà cửa thì không nên tu sửa hay động thổ nơi phía TÂY (ngoại trừ những việc như trồng cỏ, làm vườn lặt vặt...thì không sao). Tuy rằng trong sách vở thường cho rằng Tam Sát chỉ kiêng kỵ ở phương tọa, chứ không kiêng kỵ nơi đầu hướng. Nhưng trong thực tế có nhiều gia đình do nơi bên hông nhà phạm Tam Sát, mà vì tu sửa hoặc động thổ nên vẫn gặp tai họa. Do đó, ngoại trừ những nhà có phía trước nhìn về hướng TÂY là có thể tu sửa khu vực này trong năm 2007, còn tất cả những nhà khác đều cần phải kiêng kỵ, đặc biệt là những nhà tọa TÂY hướng ĐÔNG thì phương tọa (tức khu vực phía TÂY) cần phải giữ yên tĩnh, nguyên vẹn, chứ không được tu sửa. Về vị trí giường ngủ thì nếu nằm tại khu vực phía TÂY trong nhà thì trong năm nay nên dời đi chỗ khác, kẻo nếu không thì bệnh tật, tai họa sẽ xảy đến cho người nằm, nhất là trong những tháng THÂN-DẬU-TUẤT (tức các tháng 7, 8, 9 âm lịch). Về vấn đề du lịch hoặc đi xa thì không có gì cần kiêng kỵ nếu đi về phương của Tam Sát. Riêng vấn đề mua nhà hay xây nhà mới thì chỉ cần tránh những nhà hướng ĐÔNG (tức phía sau nhà là hướng TÂY) là đủ.

Cho nên các vấn đề như mua nhà, xây, sửa nhà cửa hay vị trí giường ngủ... nhiều khi có ảnh hưởng rất lớn đến vận hạn của con người, mà vì vô tình không biết nên người ta đã tiến hành, thực hiện không đúng lúc, đúng chỗ, dẫn đến nhiều thảm trạng đau thương. Hy vọng là những điều vừa nói ở trên sẽ giúp quý bạn có được đôi chút khái niệm về các Thần Sát của Phong thủy, từ đó có thể tự hoạch định được cho mình những phương án xây dựng hoặc tu sửa nhà cửa tốt đẹp hơn, vừa có thể tránh được nhiều rủi ro, tai nạn đáng tiếc, vừa làm cho đời sống được yên ổn, thoải mái hơn trong năm ĐINH HỢI 2007 này.

Nguyệt Tinh Tháng 11, 2007
Mục đích các bài viết về nguyệt tinh mỗi tháng nhằm cung cấp cho qúy vị những thông tin căn bản về các sao tốt, xấu và những nơi chúng đến trong tháng. Đồng thời, sẽ đề nghị những cách đơn giản để hoá giải phần nào các sao xấu đối với nơi cư ngụ, sinh hoạt, hay làm việc của qúy vị.

Tuy nhiên, những nhà hoặc cơ sở thương mại đã và đang bị nhiều khó khăn hoặc tai ương, cách tốt nhất là cần sự trợ giúp từ những người có chuyên môn và kinh nghiệm về phong thủy, để có cách hoá giải hữu hiệu nhất.

Nguyệt tinh thánh 11/2007 sẽ có ảnh hưởng từ ngày 8/11/2007 đến hết ngày 6/12/2007 (Dương Lịch).

Trong tháng 11/2007, nguyệt tinh trùng với niên tinh, cho nên những khu vực có phi nguyệt tinh tốt sẽ được niên tinh ở đó càng làm cho tốt hơn. Còn những khu vực có nguyệt tinh xấu thì lại bị xấu hơn.

Những hướng xấu trong tháng: Đông Bắc, Bắc, Tây Bắc, và Trung cung.

Những hướng tốt trong tháng: Tây Nam, Đông Nam, Tây, Nam, và Đông.

Trong tháng này, hung tinh Ngũ Hoàng bay đến hướng Đông Bắc, gặp niên tinh Ngũ Hoàng đã ở sẵn đây, cho nên khu vực này rất dể bị nhiều tai hoạ. Các tai họa từ thất thoát tiền bạc, liên lụy pháp luật, tai ương, bệnh tật v.v. Những nhà, cơ sở thương mại, hay văn phòng nên giữ khu vực này thật yên tĩnh. Nếu ở đây có cửa chính thường dùng thì nên treo một phong linh 6 ống rỗng bằng kim loại. Cách tốt nhất là tránh, không dùng cửa ở khu vực Đông Bắc trong tháng. Vì khu vực này có niên tinh Ngũ Hoàng, nên cần đặt một hũ nước muối, bên trong đó có 6 đồng tiền kim loại để hoá giải. Những nhà có bếp hoặc phòng ngủ ở khu vực này cũng phải đề phòng. Đối với những ai có dự định dọn vào nhà có tọa hay hướng nằm trong khu vực ĐÔNG BẮC thì nên hoãn lại đến tháng sau, hoặc chờ sang năm mới tốt hơn.

Hướng Bắc có nguyệt tinh Thất Xích là sao mang hiểm hoạ về xung đột, trộm cướp. Khu vực này đã có niên tinh Thất Xích nên càng nguy hiểm. Những nhà hay cơ sở thương mại có cửa thường dùng ở phía BẮC, hoặc những ai có phòng ngủ tại đây nên đề phòng trộm cướp, hay bị lường gạt, bực bôi, hao tán tiền của trong tháng này. Nên giữ cho khu vực này càng yên tĩnh càng tốt để giảm thiểu các hiểm hoạ do Thất Xích gây ra.

Hướng Tây Bắc có nguyệt tinh Tam Bích, cộng thêm niên tinh Tam Bích ở đây, sẽ đưa đến nhiều tai hoạ về tranh tụng pháp luật, cãi vã, miệng tiếng. Những cơ sở thương mại hay văn phòng có cửa chính thường dùng ở khu vực này nên cẩn thận hơn khi phải ký giấy tờ, vì rất dể vướng vào vấn đề tranh tụng pháp luật. Người có phòng ngủ ở đây ngoài việc đề phòng những rủi ro nói trên, cũng nên cẩn thận trong cách cư sử hàng ngày để tránh đỗ vỡ trong các mối quan hệ. Hơn nữa, năm nay sao thái tuế đến khu vực Tây Bắc nên phải thận trọng, không nên tu sửa hay làm những việc gây chấn động ở đó, kẻo càng bị thêm nhiều tai nạn, hiểm hoạ hơn.

Trung cung trong tháng này có cả sao Nhị Hắc của tháng và của năm nên rất dể bị nhiều tai họa về bệnh tật. Những ai có phòng ngủ ở đây nên đề phòng cho sức khoẻ, tránh những sinh hoạt làm cho cơ thể suy yếu, như làm việc quá mức, hoặc ăn uống không điều độ. Nên giữ cho khu vực Trung cung yên tĩnh để giảm thiểu các hiểm hoạ do Nhị Hắc gây ra.

Trên đây là những hướng xấu trong tháng 11/2007, các hướng còn lại được xem là trung bình hoặc tốt tùy theo sự hiện diện của phi tinh trong trạch bàn của căn nhà.

Hướng Tây Nam có nguyệt tinh và niên tinh Bát Bạch là cát tinh và cũng là vượng tinh trong vận 8 này, có thể hoá giải hay làm giảm bớt những ảnh hưởng xấu của các hung tinh khác. Những nhà, cơ sở thương mại, hay văn phòng có cửa thường dùng ở hướng Tây Nam sẽ được nhiều cơ hội tốt. Nên tận dụng khu vực này để có được nhiều cơ hội tốt trong tháng.

Hướng Đông Nam có nguyệt tinh và niên tinh Nhất Bạch là cát tinh, nếu bình thường là rất tốt trên nhiều phương diện như công ăn, việc làm, nhất là việc học vấn. Cho nên, những nhà hoặc cơ sở thương mại có cửa thường dùng ở khu vực này sẽ thấy nhiều cơ hội phát triển trong tháng. Tuy nhiên, hướng Đông Nam năm nay lại có tuế phá. Cho nên phải thận trọng, không nên tu sửa hay làm những việc gây chấn động ở khu vực này kẻo bị nhiều tai nạn, hiểm hoạ ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, tiền bạc và công việc. Đặc biệt năm nay là năm HỢI, tháng này (11 dương lịch tức tháng 10 âm lịch) cũng là tháng HỢI. Những nhà hướng ĐÔNG NAM (nhất là hướng TỴ) đều bị 2 lần Tuế Phá, nên nếu trạch vận xấu sẽ bị tai hoạ lớn. Nếu còn xây, sửa nhà, hay làm phòng ngủ tại đây thì rất nguy hiểm, sẽ bị tai hoạ, bệnh tật nặng hoặc tử vong.

Hướng Tây có nguyệt tinh và niên tinh Tứ Lục, nên có lợi cho những công việc về văn chương, khoa bảng, và cả về phương diện tình cảm. Tuy nhiên, hướng Tây trong năm nay bị phạm Tam Sát . Cho nên phải thận trọng, không nên tu sửa hay làm những việc gây chấn động ở khu vực này kẻo bị nhiều tai nạn, hiểm hoạ ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, tiền bạc. Cũng như trường hợp hướng ĐÔNG NAM 2 lần phạm tuế phá, hướng Tây trong tháng này cũng 2 lần phạm tam sát. Vì vậy, nếu phương này bị nhiều chấn động hoặc tu sửa sẽ chủ gây nhiều tai nạn. Những nhà có cửa hướng Tây trong tháng này cũng gặp nhiều khó khăn, mọi sự khó suông sẻ. Còn những ai có phòng ngủ tại khu vực phía Tây cần phải dọn ra khỏi phòng kẻo sẽ bị tai hoạ.

Hướng Nam có nguyệt tinh và niên tinh Lục Bạch là cát tinh đưa đến nhều cơ hội về tài chính. Cho nên những nhà, cơ sở thương mại, hay văn phòng có cửa thường dùng ở hướng này có thêm nhiều cơ hội tốt cho thương mại và việc làm. Tuy nhiên, vì cả hai niên, nguyệt tinh Lục Bạch là hành kim, nên những người có phòng ngủ ở khu vực này nên đề phòng vì rất dễ bị tai nạn liên quan đến kim loại.

Hướng Đông trong tháng này có nguyệt tinh và niên tinh Củu Tử, đặc tính của nó làm tăng thêm ảnh hưởng cuả sao đi cùng. Nếu trong trạch bàn của căn nhà có sao tốt ở khu vực này, thì sẽ được Cửu Tử càng làm cho tốt thêm. Ngược lại, nếu trạch bàn có sao xấu ở đây thì Cửu Tử sẻ khiến cho xấu hơn. Nếu đây là khu vực quan trọng của căn nhà, văn phòng, hay cơ sở thương mại thì nên với chúng tôi để tìm hiểu thêm trạch bàn có sao gì hiện diện ở đây để có thể tận dụng hoặc hoá giải bớt hiểm hoạ cuả nó. Ngoài ra, nếu khu vực này có bếp hoặc những dụng cụ phát hoả thì càng phải đề phòng hoả hoạn.

Nói chung, vì phi tinh tháng 11/2007 trùng với phi tinh tháng 02/2007, nên những ai đã từng bì nhiều tai hoạ trong tháng 02/2007 thì rất dễ bị tai hoạ trong tháng này. Đây là một trong nhiều cách để nhận biết sự ảnh hưởng cuả nguyệt tinh và niên tinh.

Ý nghĩa của cửu tinh và các cặp sơn - hướng tinh

Phi tinh và Loan đầu (loan đầu đây là nói về hình thể bên ngoài, không liên quan tới phái Loan đầu) là 2 yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc quyết định cát, hung của 1 căn nhà, còn thiết kế bên trong cũng có tác dụng nhưng yếu hơn, nên chỉ là phụ thuộc mà thôi. Cũng giống như 1 căn nhà tuy phía trước có biển lớn, phía sau có núi cao, 2 bên Long, Hổ hùng tráng bảo vệ. Nhưng nếu phi tinh lại gặp phải cách vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, Vượng khí của Hướng tinh tới phía sau thì vẫn bị cách "Thượng Sơn, Hạ Thuỷ" mà gia nghiệp suy bại thê thảm. Nếu những căn nhà đã bị như thế thì dù thiết kế bên trong có hoàn mỹ tới đâu cũng không thể làm thay đổi cục diện xấu của căn nhà. Ngược lại, 1 nhà tuy phía trước có núi cao, còn phía sau có biển lớn, tuy đối với phái Loan đầu là cục diện thất bại, nhưng nếu có vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, vượng khí của hướng tinh tới phía sau thì vẫn có thể phát phúc 1 thời. Cho nên mới nói Loan đầu phụ thuộc vào Phi tinh, Phi tinh phụ thuộc vào Loan đầu là vậy.
Về sự tương quan giữa vận-sơn-hướng tinh trong cùng 1 cung thì cũng đã có nhiều sách vở đề cập tới, thậm chí còn chia ra thành tỷ lệ phần trăm giữa 3 sao này để cứu xét. Nhưng có lẽ các tác giả đó 1 là không muốn tiết lộ những gì họ biết, 2 là vì không hiểu rõ tính chất vượng, suy hay "thất, đắc" của những phi tinh nên mới bày vẽ đủ cách tính toán mà thôi. Nhưng thực chất là vì toạ và hướng là 2 phương vị quan trọng quyết định vận khí của 1 căn nhà, nên Sơn tinh và Hướng tinh mới có tầm quan trọng đặc biệt, và cũng vì vậy mà khi lấy trạch vận cho 1 căn nhà thì người ta mới lấy những Vận tinh tới TOẠ VÀ HƯỚNG nhập trung cung xoay chuyển để xác định những phương vị sinh, vượng, suy, tử của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi. Chứ không ai lấy hết Vận tinh chung quanh nhà đem nhập trung cung xoay chuyển làm gì, dù là phía trước của căn nhà đó có thuỷ hoặc cửa ra vào hay không? Hoặc phía sau có núi hoặc nhà cao che chắn hay không? Điều này cho thấy 2 phương toạ và hướng có tác động quyết định lên vận khí của 1 căn nhà, và do đó, sức mạnh của Sơn và Hướng tinh mới có tầm quan trong đặc biệt hơn Vận tinh. Riêng Vận tinh chỉ là vị trí cố định của phi tinh trong từng Vận, nên tác dụng rất yếu, chỉ có khả năng phối hợp với Sơn và (hoặc) Hướng tinh để làm tăng thêm sự tốt, xấu mà thôi, chứ không thể có khả năng chi phối hay giảm thiểu, hoặc làm thay đổi tính chất của Sơn, Hướng tinh cùng vị trí với nó. Còn sự tương tác giữa Sơn tinh và Hướng tinh, trên thực tế phải tuỳ thuộc vào sự "đắc cách" hay "thất cách" của chúng mới có thể biết được sao nào nắm quyền chủ chốt tại khu vực đó. Muốn biềt được điều này thì phải nắm vững những nguyên lý về "Thu Sơn, Xuất Sát" mới không bị lầm lẫn hoặc rối trí trong việc xét đoán những ảnh hưởng của phi tinh trong cùng 1 cung. Biết rằng khí sinh, vượng của Sơn tinh cần phải đóng trên những chỗ cao. Nếu được như thế thì tức là Sơn tinh đã đắc cách, uy lực của nó đương nhiên được phát huy tới mức tối đa, cho nên chẳng những nó có đủ sức để chi phối cả Vận tinh và Hướng tinh tại đó, mà nếu gặp trường hợp Hướng tinh tại đây lại là khí suy, tử thì mọi hung khí của Hướng tinh đều được nó hoá giải. Cho nên đây chính là trường hợp "dùng Sơn thần xuất sát của Thuỷ thần", hay còn được gọi tắt là "Xuất Sát".
Ngược lại, khí sinh, vượng của Hướng tinh cần phải đóng tại những nơi có Thuỷ như sông, hồ, ao, biển, hoặc những nơi có cửa nẻo ra, vào nhà. Nếu được như thế là Hướng tinh đã "đắc cách", nên uy lực của nó đủ để khống chế cả Vận tinh lẫn Sơn tinh tại đây. Nếu trong trường hợp Sơn tinh là khí suy, tử thì sẽ được Hướng tinh hoá giải, làm mất hết hung khí, nên đây là trường hợp "dùng Thuỷ thần để thu sát của Sơn thần", hay còn được gọi tắt là "Thu Sơn".
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí sinh, vượng: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Hướng tinh. Nếu khu vực này có Thuỷ thì Hướng tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Sơn tinh. Nếu khu vực này không có núi, cũng không có Thuỷ, tức là cả Sơn tinh lẫn Hướng tinh đều không có hiệu lực. Đây là cục diện ngang hoà, không có sao nào chi phối nhau cả, và cũng không có ảnh hưởng gì tới vận khí căn nhà.
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí suy, tử: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh đó đắc thế, nên nhà sẽ bị tai hoạ do đối tượng ứng với Sơn tinh đó gây ra. Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nơi phía ĐÔNG có Sơn tinh 7, hướng tinh 3. Nếu khu vực đó có núi hay nhà cao thì nhà sẽ bị tai hoạ do Sơn tinh số 7 này mang tới. Vì số 7 thất vận chủ kẻ tiểu nhân hay trộm cướp, nên nhà này dễ bị kẻ tiểu nhân hãm hại, hay trộm cuớp đến phá nhà. Trong trường hợp này, Sơn tinh sẽ khống chế Vận tinh và Hướng tinh. Còn Hướng tinh thất vận lại nằm trên cao nên vô lực. Ngược lại, nếu khu vực đó không có núi, nhưng lại có Thuỷ thì nhà sẽ bị tai hoạ hay thất tán tiền bạc do Hướng tinh đó đem tới. Trong trường hợp này, Hướng tinh đã khống chế cả Vận tinh và Sơn tinh. Còn Sơn tinh vừa là khí suy, tử, vừa đóng tại nơi thấp, trũng nên vô lực.
Cho nên sự tương tác giữa những Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung là tuỳ thuộc vào sự thất, đắc của chúng mà thôi. Nói "thất, đắc" không phải là nói thất vận hay đắc vận, mà là ám chỉ chúng có đóng tại những nơi phù hợp hay không mà thôi. Sơn tinh nếu đóng trên núi cao là "đắc cách", sẽ có đủ uy lực sai khiến Thuỷ thần (tức Hướng tinh). Hướng tinh nếu đóng tại những nơi có Thuỷ là "đắc cách", sẽ có đủ uy lực mà điều động Sơn tinh. Nhưng cũng phải phân ra nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà "đắc cách" thì sẽ chủ đại phúc lộc, còn nếu khí suy, tử của Sơn, Hướng tinh mà "đắc cách" thì sẽ chủ đại hoạ. Còn nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà "thất cách", tức là Sơn tinh gặp Thuỷ, Hướng tinh gặp núi thì đã thuộc vào cách "Thượng Sơn, Hạ Thuỷ" rồi. Cho nên khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh cần phải "đắc cách" , còn khí suy, tử thì cần phải "thất cách". Có như thế thì mới bảo đảm phúc lộc lâu dài và tránh được mọi tai hoạ.
Còn vấn đề dùng Ngũ hành sinh-khắc để luận ảnh hưởng của các sao, cũng như sự phối hợp giữa chúng mà tạo thành những số "hợp thập", số Tiên thiên hay Hậu thiên, Phản ngâm, Phục ngâm... chỉ là phụ và sau khi đã biết được tình trạng "thất, đắc" của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi.
Thế nào là vượng và thế nào là suy ?
Vượng là khi được đắc cách ( dĩ nhiên phải là sao vượng, sinh hoặc tiến khí trong vận đó )như sơn vượng thì có núi cao. Nhà cao, cây cao….Hoặc hướng vượng thì có thủy, trống thoáng hoặc có đường đi
Suy là khi bị thất cách . Như sao sơn vượng, sinh hoặc tiến khí mà lại gặp thủy. Hay sao hướng vượng, sinh hoặc tiến khí lại gặp sơn . Sao sơn là tử khí mà lại gặp núi hoặc sao hướng là tử khí mà lại gặp thủy
Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nhưng có Hướng tinh số 2 đắc thuỷ của hồ tắm lớn. Đây là trường hợp tử khí đắc cách, nên trong nhà này vừa bị hao tài, vừa bị bệnh tật liên miên, lại còn xuất hiện quả phụ. Cho nên đàn ông trong nhà đó dễ bị vắn số. Đó là chưa kể nếu nơi đó lại có sơn tinh 3, tạo thành thế "ĐẤU NGƯU SÁT", nên gia đình sẽ bị mắc khẩu thiệt, quan tụng liên miên. Hoặc nếu nơi đó có sơn tinh hay vận tinh 7, kết hợp với hướng tinh 2 tạo thành cặp 2-7 Hoả tiên thiên thì nhà này dễ bị xung đột hoặc trong nhà có người mắc bệnh đau tim. Vào những năm có niên tinh 9, 7, 2 chiếu tới khu vực này thì bệnh tim càng nặng, có thể chết người. Nếu khu vực này mà lại nằm tại phía ĐÔNG hoặc ĐÔNG NAM thì vào những năm có niên tinh 4, 3 chiếu tới thì còn gặp hoả hoạn mà sản nghiệp tiêu tan nữa. Cho nên nếu khí suy tử mà đắc cách thì ngoài vấn đề phá tài, tổn đinh thì còn bị những tai hoạ, bệnh tật khác nữa, chứ không phải chỉ là làm ăn lụn bại (trường hợp Hướng tinh "Thượng Sơn") hoặc nhân số giảm thiểu (trường hợp Sơn tinh "Hạ thuỷ") như các trường hợp vượng tinh thất cách, tức là mức độ tai hoạ còn nguy hiểm và trầm trọng hơn.
Vấn đề khảo sát các sao Vận-Sơn-Hướng (nhất là Sơn và Hướng) thì trước hết cần phải xét đến thời vận, xem chúng là sinh, vượng hay suy, tử. Sau đó mới xét tới hình thế Loan đầu xem chúng có đắc cách hay không? Như Sơn tinh vượng cần gặp núi hay nhà cao, Hướng tinh vượng cần có thuỷ hoặc cửa ra vào... Nếu chúng được như vậy thì dù ngũ hành có bị xung khắc cũng vẫn không có tai hoạ gì cả. Chỉ khi chúng đều là khí suy, tử, hoặc không đắc cách thì mới xét đến ngũ hành sinh, khắc để đoán biết hung hoạ mà thôi. Lấy thí dụ :cung KHẢM có các sao 7-8-3 (theo thứ tự Sơn-Vận-Hướng). Nếu là trong vận 7, sơn tinh 7 là vượng khí, nên nếu khu vực này có nhà cao thì chủ vượng nhân đinh, lại hoá sát của Hướng tinh số 3, chứ không có vấn đề khắc chế gì cả. Nhưng qua vận 8, sơn tinh 7 biến thành suy khí, khắc chế Hướng tinh 3, nên nhà này dễ bị trộm cướp hay tai hoạ hình thương, hay có bệnh về thần kinh... Chỉ có khi xét tới niên, nguyệt, nhật thời tinh thì mới dùng đến nguyên lý ngũ hành sinh, khắc làm chủ yếu. Còn giữa vận-sơn-hướng khi xét đến sự sinh, khắc thì chủ yếu là giữa Hướng tinh và Sơn tinh, còn vận tinh chỉ có thể phụ hoạ thêm vào cái sinh hoặc khắc giữa 2 sao đó mà thôi.

1. Nhất Bạch

Nhất Bạch là sao Tham Lang, hiệu Văn Xương, ngũ hanh thuộc thủy, màu trắng; mùa thu tiến, mùa đông vượng, mùa xuân tiết, mùa hạ tử . Kẻ sỹ gặp nó ắt được lộc của nó, người thường gặp nó nhất định tiền bạc sẽ vào nhà, đây là đệ nhất cát thần . Bị khắc sát thì như Trang Tử gõ chậu mà chôn vợ . Nhất Bạch lại là quan tinh, nếu nó đương vượng, hình thế Loan Đầu bên ngoài lại có thủy phóng quang thì khoa cử đổ đại, danh lừng bốn bể, sinh con trai thông minh trí tuệ . Nó mà suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi lênh đênh, màng nhiều bệnh tật về huyết, thận hư, hoặc thành kẻ nghiện ngập, trộm cướp

Nhất gặp Nhất là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi cho tài văn chương hoặc các công việc về văn. Nếu suy thì dễ bị bệnh về máu, nghiện ngập hoặc chìm đắm trong tửu sắc

Nhất gặp Nhị là khắc nhập. Nếu vượng thì mẫu thân dễ mắc bệnh về tỳ vị hoặc đường ruột . Nếu suy thì chồng bị vợ nhục mạ hoặc lấn quyền, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về thận hoặc tiết niệu

Nhất gặp Tam là sinh xuất. Nếu vượng thì con trưởng được danh giá quyền quý, có lợi cho người thuộc mệnh Tam mộc, nhân đinh tài bạch đều phát lớn . Nếu suy thì con cháu dòng trưởng suy bại, bị kiện cáo tù tội hoặc trộm cướp, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về gan,chân, hoặc bị ép phải dời đi nơi khác ở

Nhất gặp Tứ là sinh xuất. Nếu vượng thì xuất người nổi tiếng trong khoa cử, quan vận hanh thông thuận lợi, ra ngoài gặp nhiều điều hay về văn nghiệp, tên tuổi nổi bật . Nếu suy thì cũng đỗ đạt nhưng quý mà không phú, hoặc vì mang tiến tài hoa mà chìm đắm trong chống nữ sắc sinh ra quan hệ nam nữ bất chính . Nếu hình thế loan đầu bên ngoài có vật thuộc hành thổ thì đường văn chương hư bại, không con nối dõi, hoặc con cái chết yểu

Nhất gặp Ngũ là khắc nhập. Nếu vượng thì được cả tài bạch lẫn sang quý (tức có địa vị chức tước). Nếu suy thì nữ nhân trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về đường sinh dục; nặng thì thận suy kiệt, ngộ độc thức ăn, con thứ chết yểu

Nhất gặp Lục là sinh nhập. Nếu vượng thì từ nhỏ đã được hưởng giàu sang, ngoài ra, nếu sơn Kiền mà đắc thủy (có sông nước) thì sự nghiệp văng chương có thể phát đên tám đời . Nếu suy thì thủy kim chủ về lạnh, dễ mắc các chứng bệnh về đầu, xương hoặc bị thương tật vì kim loại

Nhất gặp Thất là sinh nhập. Nếu vượng thì đào hoa, dễ tạo của cải . Nếu suy thì kim thủy đa tình, đam mê tửu sắc, hoặc vì tửu sắc mà bị kiện tụng thị phi, có khi vì tranh chấp mà sinh ra thù hằn gây gỗ đến nổi phải mang thương tật

Nhất gặp Bát là khắc nhập. Nếu vượng thì trẻ con trong nhà có họa chết đuối, xuất hiện người có tài về viết lách . Nếu suy thì vợ mắc chứng vô sinh, có bệnh về tai, thiếu máu, hoặc có con chết non

Nhất gặp Cửu là khắc xuất. Nếu vượng thì thủy hóa đều có đủ, lợi lớn về tiền tài, nhân khẩu cũng thịnh vượng . Nếu suy thì dễ mắc các chứng bệnh về tim, vợ chồng bất hòa, anh em tranh chấp

2. Nhị Hắc

Nhị Hắc là sao Cự Môn, cũng là bệnh phù. Nếu vượng thì giau có, nhà cửa ruộng vườn thên than, nhân khẩu hưng vượng, lại phát quý về binh nghiệp . Khi nó suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểu, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng, trong nhà thường phát sinh bệnh tật liên miên

Nhị gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có về điền sản, gia cảnh hưng vượng, nhân khẩu đông, mẫu thân khỏe mạnh sống lâu. Nếu suy thì vợ khắc chồng, đàn ông mất ở tuổi trung niên, quả phụ làm chủ gia đình, người nhà thường mắc cách chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột hay thận

Nhị gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất nhiều, có quyền thế, lợi về binh nghiệp. Nếu suy thì ham mê nữ sắc, dâm đãng, khí lực suy yếu, mẹ già nhiều bệnh tật, người trong nhà thường xảy ra nhiều chuyện xấu, ra ngoài dễ gặp tiểu nhân ngầm hại

Nhị gặp Tam là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ ngắm quyền, gia tài tích lũy do làm việc bất chính, nhưng con trưởng chẳng ra gì. Nếu suy thì đàn ông vì dâm đãng mà gia đình tan nát, đàn bà dễ mắc các chứng về đường tiêu hóa . Nhị Tam sóng đôi còn gọi là "đâu ngưu sát" nên vợ chồng thường bất hòa, chống đối nhau. Người trong nhà chỉ ham an chơi nên ruộng vường bỏ hoang, con cháu dễ thành trộm vặt

Nhị gặp Tứ là khắc nhập. Nếu vượng thì con dâu nắm quyền, gia đình hưng vượng, nhiều nhân đinh. Nếu suy thì chọ dâu ức hiếp em chồng, nam giới hiếu sắc . Có mẹ già cô khổ, hoặc xuất gia làm ni. Người trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột, đau cách tay. Gia cảnh buồn tẻ vắng lặng, ra ngoài thường gặp những việc tai tiếng quấn vào thân, hoặc mắc bệnh thương hàn

Nhị gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tạo dựng cơ nghiệp dễ dàng, tài vận tốt, hưng thịnh nhất là về địa sản. Nếu suy thì phát sinh đủ thứ bệnh, vợ đau yếu nặng, dễ thành người góa vợ . Đặc biệt người nhà thường mắc các chứng về tỳ vị, đường ruột mãn tính

Nhị gặp Lục là sinh xuất. Nếu vượng thì gia cảnh bình yên, con cái thuận hòa, gia nghiệp hưng thịnh, nhiều khả năng hành nghề y cứu đời, hoặc trở thành người có quyền trong nghiệp võ. Nếu suy thì cha già lắm bệnh, trong nhà có người đi tu, cha con thù oán nhau, chủ khách tranh chấp, thường gặp việc tai tiếng thị phi, người nhà thường mắc bệnh đau dầu hay điên loạn

Nhị gặp Thất là sinh xuất. Nếu vượng thì trở thành cự phú bằng tiền của bất chính hoặc bất ngờ (hoạnh tài), nhiều con cái. Nếu suy thì mẹ và con gái thường nghịch nhau, vợ kế không hiền thục . Ngoài ra dễ có hỏa tai hoặc bị chứng bạch đới cấp tính, kiết lỵ; đàn ông thường hay bị phụ nữ quấy rầy hoặc vì tranh chấp thị phi mà bị đâm chém

Nhị gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất không thấy bờ. Nếu suy thì hay mắc bệnh nhẹ, đàn bà thường bỏ nhà đi tu

Nhị gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì văn chương chử nghĩa bề bề, đất đai tiền của tích tụ lớn. Nếu suy thì việc đen tối ập đến ngay, chủ về chuyện nam nữ ám muội, tiền của ra đi nhanh chóng, vả lại còn xuất hiện người chồng ngu đân . Hóa nóng thổ (đất) khô nên dễ sinh ra chứng bạch đới cấp tính . Khi âm quá nhiều nên nhiều đời có quả phụ . Thổ tổn thương mắt, con cháu ắt có người mù lòa

3. Tam Bích

Tam Bích là sao Lộc Tồn, tính thích đấu đá nên còn gọi là Xi Vưu. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng . Con cái dòng trưởng đại hưng vượng. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khoác vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp

Tam gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì con trưởng được quyền quý, đinh tài đều đại phát, thi cử đổ đạt. Nếu suy thì con cháu ngành trưởng lụn bại, tính khí ngỗ ngáo, có thể dẩn tới họa quan tụng; hoặc vì bấtt hòa với xóm giềng mà phải dọn nhà đi xa. Việc làm phần lớn không thuận lợi, hơn nữa còn dễ bị thương tật ở tai chân.

Tam gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì được giàu có về nhà cửa ruộng vườn, con trưởng tài đinh đại phát. Nếu suy thì dễ có sát khí chống đối nhau. Gia đạo bất hòa, vợ chồng không êm ấm. Thường vì tranh chấp với cấp trên mà gặp điều tai tiếng . Dễ mắc chứng đau dạ dày, khó tiêu hóa, hoặc vì đánh nhau mà chân bị thương tật; nói chung là gia đình gặp nhiều vất vả, trở ngại mà vẫn thất bại tan vở

Tam gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì thanh danh hiển hách, hưng gia lập nghiệp, tiền của tương đối khá giả. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cướp hoặc bị trộm cướp, dễ bị thương tật ở chân tay, hoặc vì đánh nhau với người mà bị tù tội.

Tam gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì Tam và Tứ là chính phối, sinh nhiều quý tử, sự nghiệp và tài vận phát triển hanh thông. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cắp hoặc ăn xin, thường mắc chứng dị ứng hoặc bị thương ở tay chân, đau gan, đau mật. Nếu gặp Thái Tuế e rằng kiếp nạn vì tình hoặc bị rắn cắn

Tam gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì tiền tài khá giả và quyền quý, có thể làm quan to. Nếu suy thì dễ bị các chứng độc như bọ cạp, rắn, rết cắn; tâm tư uất kết dễ mắc bệnh gan, hoặc thương tật ở chân.

Tam gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan trường lao đao vất vả nhưng sự nghiệp ắt thành, trở thành người phụ tá đắc lực cho cấp trên. Nếu suy thì bị quan tụng hoặc tai họa binh đao, dễ bị thương tật ở chân tay do kim loại gây nên; đôi khi mắc bệnh gan, gia đạo thường xảy ra tranh chấp.

Tam gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì nguồn tiền của tăng tiến, có chức quyền ca/ văn lẫn võ. Nếu suy thì nó là "Xuyên Tâm Sát", thường mắc các chứng bệnh ở tay chân, gan mật; hoặc bị quan tụng thị phi. Nếu phương Đoài bị khắc phá thì gan bị thương tổn hoặc mắc chứng thổ huyết. Trong nhà có kẻ đam mê tửu sắc, bị trộm cướp trèo tường khoét vách phá hoại danh tiết con gái trong gia đình, chốn phòng the không hòa thuận, các tai họa thường là con trưởng chịu

Tam gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì xuất hiện văn tài bậc nhất, lại phát cả tài lẩn đinh. Nếu suy thì con thứ gặp nhiều tai họa, dễ bị thương gân cốt hoặc bị chó cắn. Anh em trong nhà bất hòa hoặc vì tranh giành gia sản mà gây ra kiện tụng

Tam gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì phát như sấm dậy, con cháu thông minh, văng tài hiếm thấy, hưởng giàu sang được nhiều năm. Nếu suy thì tai tiếng thị phi chồng chất liên tiếp, thường mắc các chứng đau mắt, đau dầu; ngoài ra con dễ gặp hỏa hoạn.

4. Tứ Lục

Tứ Lục là sao Văn Khúc . Nếu vượng thì tai văn chương lừng danh, khoa cử đổ đạt, con gái dung mạo đoan trang và lấy được con nhà quyền quý . Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn; đàng ông đam mê tửu sắc, gia sản phá bại phải lang thang phiêu bạt

Tứ gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì một đời danh giá, đại lợi về văn tài, học hành thì cử đổ đạt. Con cái thông minh, thành tích thường đứng đầu, nghề nghiệp vừa ý, tài vận thuận lợi. Nếu suy thì dễ mắc bệnh trúng phong, hoặc vì dâm đãng tửu sắc mà hư bại, gây ra tiếng xấu bên ngoài . Hoặc vợ vô sinh, có con thì cũng chết yểu.

Tứ gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì tương đối giàu sang, vợ nắm quyền trong nhà, con cái đông. Nếu suy thì vợ ngỗ nghịch khắc mẹ chồng và ức hiếp em chồng. Không khí gia đình nặng nề, không vui; người nhà thường hoảng loạn, dễ mắc chứng đau dạ dày; bị chó dại cắn . Mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng thường hay xích mích, mẹ già gặp tai ương. Sự nghiệp suy bại, gia phong càng lúc càng xấu đi, hoặc có người xuất gia làm ni.

Tứ gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì âm dương phối hợp đúng phép, gia đạo êm ấm, con cái thuận hòa, sự nghiệp thuận lợi, tương đối giàu sang. Nếu suy thì vợ chồng hay cải vả xích mích, người nhà thường có ý làm tăng ni, xuất hiện kẻ sống lang thang chẳng ra gì. Thường mang bệnh dị ứng hoặc có tật ở tay chân

Tứ gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì hai sao Văn Khúc cùng đến, con cháu thành tích nổi bật, có tinh mừng về thi cử. Đại lợi về tài văn chương, làm quan văn khá nổi tiếng. Nếu suy thì phiêu bạn khắp nơi, hoặc trở thành tăng ni. Đàn ông xa nhà bôn ba, sống nơi chân trời gốc bể. Người nhà dễ bị bệnh phong; quả phụ làm chủ gia đình

Tứ gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì có tài văn chương, giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì ham ăn ham uống, ruộng vườn bỏ hoang, cảnh nhà ảm đạm, buồn tẻ; nữ chủ nhân thường hay đau ốm, có ý hướng xuất gia, khó sinh và khó nuôi con cái, gia đạo lụn bại.

Tứ gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan binh không dám đụng đến, được mọi người đối đãi tử tế, gia đạo êm ấm, tài lộc có đủ. Nếu suy thì cha chồng ngược đãi con dâu, dễ khiến con dâu phải bỏ nhà ra đi. Người trong nhà thường tranh chấp nhau; dễ mắc bệnh gan, mật và thương tật ở tay. Tứ Lục sóng đôi là tượng "Dịch Mã", nên người nhà dễ phảI tha hương, rày đây mai đó; nặng thì có thể bị đày.

Tứ gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền hành, táo bạo hơn người nhưng tích lũy được nhiều tiên của. Nếu suy thì nam nữ đa dâm, con cháu học hành chẳng ra gì; dễ bị bệnh thổ huyết mà chết yểu. Ra ngoài thị gặp nhiều thị phi; mẹ chồng nàng dâu bất hòa . Dễ phạm kiếp sát đào hoa

Tứ gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì vợ hiền dạy con thảo, của cải chất thành núi. Nếu suy thì người nhà có người ở trong rừng núi sâu làm ẩn sĩ, hoặc vào chùa làm sư. Con cháu nhiều bệnh tật, học hành không giỏi giang; dễ mắc bệnh viêm mũi, bệnh phong hoặc bị rắn hay chó cắn.

Tứ gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì hợp với kim Tiên Thiên, được tài lẫn quý, xuất hiện kẻ sĩ văn chương nổi tiếng. Nếu suy thì thường bị đau mắt hoặc bị hỏa tai. Đàn ông dễ rơi vào cảnh ngộ vi gian dâm mà gia sản lụn bại

5. Ngũ Hoàng

Ngũ Hoàng là sao Liêm Trinh, là đại sát tinh Mậu Kỷ . Nếu vượng thì tài đinh đại phát . Nếu suy thì bất kể nó được sinh hay bị khắc đều rất xấu . Vì vậy nó nên tịnh mà không nên động . Nếu gặp lúc sao Thái Tuế tới thì tính hung càng phát ra mạnh, tức tổi đinh hao tài lớn, nhẹ thì ốm đau, nặng thì hao vài người . Cuộc này nên tránh không nên phạm

Ngũ gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, nhưng con giữa không phát. Nếu suy thì con giửa lại chịu tai ương hoặc đau ốm nặng, đặc biệt là bệnh về đường tiết niệu, bệnh phụ khoa. Ngoài ra còn thường bị các bệnh về tai, hắc lào . Người nhà bệnh hoạn luôn

Ngũ gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì thì tài đinh đại phát, người mẹ nắm quyền trong nhà. Nếu suy thì phát đủ thứ bệnh, nhất là cha mẹ. Chủ yếu là bệnh về dạ dày và đường ruột . Gặp lúc sao Thái Tuế tới thì cha bệnh nặng, mẹ dễ thành quả phụ

Ngũ gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, con trưởng được thừa hưởng phúc lộc. Nếu suy thì thường mắc các chứng bệnh về gan, tụy, mụn nhọt, ghẻ lở ở chân tay hoặc chổ kín. Con trai phản nghịch, trong nhà có người bị thương tật ở chân, gia đạo không yên ấm

Ngũ gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì có tài vănt hơ và giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì con trai lêu lỏng ăn chơi, ruộng vườn bỏ hoang; phụ nhân có nhọ độc ở vú, phái nam thường bị sởi. Nhà cửa ảm đạm buồn tẻ, con dâu có ý xuất gia làm ni, gia phong suy bại

Ngũ gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì đinh tài đều vượng, gia nghiệp phồn thịnh. Nếu suy thì khó thoát hung sát hoành hành, dễ bị chứng bạch đới cấp tính. Nhẹ thì bị nhọt độc, nặng thì hao người

Ngũ gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì tiền tài tương đối khá giả, con cái hiếu thuận, nhưng chủ nhân không hưởng được. Nếu suy thì chủ nhân mang bệnh, nhẹ thì đau đầu, đau xương, nặng thì thập tử nhất sinh, ra ngoài dễ bị thương tổn. Hoạn lộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có thể bị tổn thất

Ngũ gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có sung túc, gia nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì tranh chấp thị phi, chuyện rắc rối xảy ra thường xuyên, hoặc vì tửu sắc mà phá hết gia sản, có khi gây nên tai họa dẫn tới tù tội. Thiếu nữ trong nhà thường đau ốm . Có người bệnh răng, miệng, họng, hoặc bị thương bởi búa riều

Ngũ gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn mênh mông, con cái tốt lành gặp nhiều thuận lợi. Nếu suy thì con trai nhỏ thường đau yếu, trung niên đau mỏi gân cốt. Khí vận của gia đạo suy giảm

Ngũ gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì con cái thông minh, tài vận tốt. Nếu suy thì sinh con ngu đần, người nhà mắc chứng đau mắt, đau đầu hay trong lòng buồn phiền. Gặp lúc Thái Tuế tới dễ mắc chứng bạch đới cấp tính

6. Lục Bạch

Lục Bạch là sao Vũ Khúc, là cát tinh. Nếu vượng thì quyền uy chấn động bốn phương, làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giàu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì sống cô độc hoặc chết trong binh đau; Người nhà thường góa vợ, có nhiều quả phụ

Lục gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, tiền của dồi dào, con cái học hành đỗ đạt. Nếu suy thì quan lộc tuy không giảm nhưng người nhà thường mắc chứng đau đầu, hoặc gặp tai nạn sông nước.

Lục gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì phát lớn, giàu có nhiều vàng bạc ngọc quý, cuộc sống bình yên, xuất hiện người hành nghề y cứu đời. Nếu suy thì tham lam vô độ, bủn xỉn, hoặc xuất gia đi tu, vợ chồng bất hòa chia cách. Người nhà thường mắc các chứng về đầu, xương, dạ dày, đường ruột

Lục gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều hanh thông, quyền uy hơn người. Nếu suy thì dễ gặp nạn binh đao, bị thương, cha con bất hòa, có tang tóc.

Lục gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có, thành công trên thương trường, nhất là lãnh vực buôn báng đường xa, hoặc được làm quan võ. Nếu suy thì khắc vợ hoặc bị khổ sai, có khi người vợ không chịu đựng nổi, phải bỏ mà đi. Người nhà thường đau tay, đau đầu hoặc bị tê liệt

Lục gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều tốt, nhưng có tiểu nhân ngầm hại. Nếu suy thì tiểu nhân chống đối, làm hao tổn tinh thần hoặc mất chức. Chủ nhân nhiều bệnh tật, thường là bệnh đau đầu, tinh thần bất ổn có thể làm điều sai quấy

Lục gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, quyền chức cao. Nếu suy thì gặp nhiều rắc rối, khó thoát thân, có khi phải ngầm di chuyển chỗ ở; hoặc bị hung đồ truy đuổi mà phải trốn chạy, của cải tổn thất, dễ bị tai nạn trên đường.

Lục gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì làm văn quan hay võ chức đều có quyền lớn trong tay, tài lộc thuận lợi. Nếu suy thì dễ bị thương vì đao kiếm, hoặc vì tranh chấp mà bị tổn thương. Nhà có thể bị trộm cướp, hoặc vì xích mích mà gặp rắc rối . Già trẻ đều không yên, thường mắc bệnh đau đầu, đau miệng, đau họng

Lục gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì có văn chức, võ quyền, công danh và bổng lộc đều có, con cháu được thừa hưởng gia nghiệp hưng thịnh. Nếu suy thì tuy quan lộc không giảm nhưng người nhà phần nhiều mắc bệnh đau đầu, đau xương.

Lục gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu thiên môn nên đinh tài đều vượng, chủ nhân quyền cao chức trọng lại sống thọ. Người nhà xuất hiện võ tướng tài ba. Nếu suy thì hỏa đốt thiên môn, người nhà sinh con bất hiếu. Con cháu dòng trưởng sa sút, gặp hỏa khắc kim thì dễ bị bệnh thổ huyết . Hỏa thiêu dốt thiên môn nên trong nhà dễ sinh nghịch tử; hỏa thịnh thì dễ gặp tai ương

7. Thất Xích

Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh. Nếu vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng . Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận, bị giam cầm . Gia đạo không yên, có thể vì hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mể tửu sắc .
Thất là hung tinh vì vậy nên tịnh mà không nên động . Động thì điều xấu càng nhiều, nhất là nhà ở đầu phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn . Nếu sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan Đầu thì sẻ các biểu hiện như:
a. Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y
b. Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể
c. Bên ngoài có sa hình dạng cái kềm thì trong nhà có người làm thợ thủ công
d. Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch
e. Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp
f. Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng

Thất gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái đào hoa. Nếu suy thì thủy kim đều lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc, tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết, thương tật, hay bị tù đày mà phá sản

Thất gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân sang quý . Nếu gặp được số Nhị Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa, người nhà dễ bị ngộ độc thức ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị.

Thất gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền cao chức trọng, trong nhà xuất hiện người có tài văn thao võ lược, bốn phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì đối xử thô bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát dễ gặp binh đao, trộm cướp . Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia đình bất hòa, con cái ly tán . Người nhà dễ mắc bệnh thổ huyết, bị thương tật hoặc quan tai.

Thất gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan lộc đều có, đồng thời gặp vận đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân, gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ chồng nàng dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yếu

Thất gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa

Thất gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có. Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau đầu, viêm nhọt

Thất gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu sắc nên dễ bị quan tai

Thất gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu có, gia đình hòa thuận, con cháu khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật

Thất gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu sảnh đường, gia đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu là ở hướng mà động thì gặp hỏa hoạn . Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung sát càn nặng, dù không động cũng gây nên hỏa hoạn . Nếu Loan Đầu bên ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai

8. Bát Bạch

Bát Bạch là sao Tả Phụ, là cát tinh. Nếu vượng thì trung hiếu, phú quý dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc tổ tiên. Nếu suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch

Bát gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì đại lợi về văn chương học hành, văn chức thăng tiến, đặc biệt thuận lợi về kinh doanh địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh thiếu máu, bệnh về tai; anh em trong nhà bất hòa, bạn bè phản bội, hoặc phụ nữ không sinh đẻ, trẻ con chết đuối.

Bát gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có nhờ địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh đau dạ dày, đường ruột, hoặc bị chó cắn. Nếu Loan Đầu bên ngoài có dải núi chạy đi thì có thể xa rời quê hương đất tổ, xuất gia làm tăng ni hoặc chết ở đất khách quê người

Bát gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì địa sản (nhà cửa, ruộng vườn) dồi dào, quyền lực tăng tiến lên đột ngột, nhờ đước số của Tiên Tiên bát quái nên việc hợp tác rất tốt. Nếu suy thì của cải thất thoát, chức quyền giảm sút. Trong nhà có người bị thương nhẹ ở tay chân hoặc có bệnh gan, dạ dày

Bát gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền, giàu có về ruộng vườn và nhà cửa. Nếu suy thì có tổn thương nhỏ, vợ lấn quyền chồng, gia đạo bất hòa. Ra ngoài dễ gặp tai nạn xe thuyền, hoặc làm ẩn sĩ ở chốn núi rừng

Bát gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài lộc phát đạt, vận thế hanh thôn. Nếu suy thì hao tài tổn sức, dễ bị bệnh nhẹ, vận thế trở ngại. Dễ mắc bệnh đau bao tử, đường ruột, hoặc ngộ độc thức ăn

Bát gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì dễ trở thành quan văn, nhiều quyền thế, phú quý và phúc đức tăng cao. Nếu suy thì thì vẫn giàu sang nhưng cha con bất hòa, dễ mắc bệnh đau đầu, nhức xương.

Bát gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì văn chức võ quyền đều có, tài lộc sung túc, vợ chồng hòa thuận, con cái an khang. Nếu suy thì tài sản dễ tiêu tán, vợ chồng mâu thuẩn bất hòa, con cháu tổn thất.

Bát gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi về văng chương, học hành; phát về ruộng vườn, nhà cửa; giàu sang phú quý đều có, sự nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì sự nghiệp suy tàn, của cải thất tán. Thường mắc bệnh nhức xương đau vai

Bát gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì tin vui đến dồn dập; giàu có không ai sánh kịp, có địa vị trong triều đình. Nếu suy thì mắt mũi lắm tật bệnh, bụng nhiệt, đại tiện ra máu, hoặc bị hỏa hoạn.

9. Cửu Tử

Cửu Tử là sao Hữu Bật . Nếu vượng thì văn chương lừng lẫy, vinh hiển đột ngột, con cháu dòng giữa được hưởng phú quý . Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa ở chốn quan trường, bị thổ huyết, điên loạn, bệnh mắt, hoặc sinh đẻ khó

Cửu gặp Nhất là khắc nhập. Nếu vượng thì trong nhà có nhiều việc vui mừng, âm dương chính phối, thủy hỏa có đủ, vợ sinh nhiều con trai, giàu sang đến đột ngột. Nếu suy thì con cháu dòng giữa lụn bại, có bệnh ở mắt và tai. Nếu kèm theo Thất Xích bay đến thì e rằng có hỏa tai

Cửu gặp Nhị là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, mẫu thân quản lý gia sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, tran viên bị hỏa hoạn, dạ dày nóng nên đại tiện ra máu, dễ có bệnh đường ruột hoặc bệnh mắt.

Cửu gặp Tam sinh nhập. Nếu vượng thì đèn luôn rực sáng sảnh đường, quyền cao chức trọng, uy chất bốn phương, con cháu thông minh đắc chí. Nếu suy thì e rằng có kiếp nạn vì dâm loạn, có hỏa hoạn. Đàn ông hung ác, bại hoại thanh danh. Người nhà dễ bị bệnh mắc, hoặc bị thương tật ở chân

Cửu gặp Tứ sinh nhập. Nếu vượng thì sảnh đường rực sáng, chồng vẻ vang danh tiếng, vợ sang quý đẹp đẽ, con cháu thông minh, tài văn chương nổi bật, có nhiều hoạnh tài, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì nam nữ dâm loạn, danh tàn thân bại, sự nghiệp tiêu tan, thường bị bệnh mă*'c hay lưng eo. Con cháu hoang đàng bừa bãi

Cửu gặp Ngũ là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về địa sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, con có tổn thương về mắt. Nếu Loan Đầu bên ngoài có ngọn núi trọc vi bị tàn phá thì con cháu thi cử khó đỗ đạt; trong nhà có người bị tật hay mù lòa, hoặc vì sắc dục mà mắc bệnh giang mai, nhọt độc.

Cửu gặp Lục khắc xuất. Nếu vượng thì văn chương hiển đạt. Thất Bát Cửu liền nhau là ứng nghiệm tám đời đều đó tài văn chương. Chủ nhân khỏe mạnh sống lâu, gia đạo an khang. Nếu suy thì lửa thiêu đốt thiên môn, trong nhà sinh ra nghịch tử, hoặc con cháu bỏ nhà ra đi. Hỏa khắc kim (phế thuộc kim) nên dễ bị thổ huyết, hoặc bệnh lao.

Cửu gặp Thất khắc xuất. Nếu vượng thì nam nữ thông minh lanh lợi, tiền của hoạnh tài đến tay. Nếu suy thì nam nữ nghiện ngập; vì ham mê tử sắc hoặc bị hỏa hoạn mà tài sản tiêu tán, nhà có người mắc bệnh lao. Cửu Thất là hỏa của Tiên Thiên và Hậu Thiên bát quái, cho nên chủ về hỏa hoạn và củng là quan tai.

Cửu gặp Bát là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, văn chức thăng tiến, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì hỏa viêm thổ táo, sinh con ngu đần. Nhà có người bị tật mắt hoặc mắc bệnh đau bao tử

Cửu gặp Cửu là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài văn chương hiển hách, nổi tiếng khắp nơi, gia cảnh rực rỡ, đinh tài phát đột ngột. Nếu suy thì sinh nhiều con gái, nam nữ hiếu sắc. Trong nhà có người bị tật ở mắc hoặc mù lòa . Trong nhà dễ có người bị bệnh bạch đới cấp tính.
Cần chú ý thế nào là vượng và thế nào là suy. Thí dụ : vận 8 ở một cung có cặp sơn hướng 8-6 . Nếu có núi, nhà cao, cây cao thì gọI là vượng vì 8 là sơn tinh vượng. Nếu có ao hồ thì gọI là suy vì 6 là hướng tinh tử khí trong vận 8

- Những người mới áp dụng Huyền Không nên lưu ý nhiều đến những cách sát, bởi do học thuật hoặc kinh nghiệm còn hạn chế dễ bị bỏ qua những cách sát gây tổn hại âm đức cho mình và cho người. Nếu đã ứng dụng theo Huyền Không thì trước hết hãy theo Huyền Không từng bước cho chuẩn. Huyền Không đặc biệt chú trọng tới việc vận dụng Lý khí sao cho phù hợp với Hình thế vì vậy Hình – Lý là hai khái niệm bắt buộc không thể thiểu khi vận dụng Huyền Không.

- Về lý khí, Huyền Không đặc biệt coi trọng sự vượng suy của khí, đôi khi ngũ hành chỉ là thứ yếu, đừng quá xét quan hệ của ngũ hành sinh khắc giữa các ai tinh, các phi tinh mà quên đi tính chất vượng suy tử của các sao. Sự vượng suy phân ra chi tiết, sao chính vận ví dụ vận 8 là Bát Bạch gọi là sao đương vận, khí nó mạnh nhất và có sức chi phối lớn, tiếp theo là sao vượng khí và sinh khí Cửu Tử, Nhất Bạch. Các sao sinh khí có sức chi phối yếu hơn nhưng cũng là cát tinh, đặc biệt trong đương vận các sao này có thể yếu nhưng sang những vận sau nó lại trở thành hữu dụng đó là trường hợp tính toán cho tương lai nhất là vận dụng trong âm phần mồ mả. Trong một cùng cặp sơn tinh và hướng tinh bước đầu phải xét xem quan hệ của sơn tinh hay hướng tinh thì cái nào là chủ cái nào là khách, sau đó xem chủ vượng hay khách vượng, nếu khách vượng khắc chủ thì là cát mà sinh nhập chủ cũng là cát. Nếu sao khách là suy tử thì luận là hung, kế tiếp mới dùng ngũ hành luận mức độ nặng nhẹ và biến tướng cụ thể của học phúc. Đừng luận máy móc (VD như những bài của anh kepnhut có giá trị nhưng những người mới học không tinh dễ sa đà quá vào ngũ hành)

- Trong tinh bàn cần luận chủ yếu sự hung sát của hai cung sơn và hướng, đó là hai cung rất quan trọng đặc biệt là trong môi trường dương trạch ở đô thị bây giờ. Cách cuộc vượng sơn vượng hướng thường là cát vì đảm bảo đượng yêu cầu nay vì hai cung sơn hướng đều có vượng tinh chiếu, nếu phối hợp với loan đầu nữa thì thật tốt. Có điều so với cách hợp thập (toàn ban có sao sơn - vận hơp 10, hoặc hướng - vận hơp 10) thì cón kém xa bởi cách hợp thập toàn ban đều vượng, khí các quẻ thông nhau, ví dụ 4, 6 là hai cung Càn, Tốn tức Thiên Môn và Địa Hộ , Càn vượng thì Tốn vượng nên chỉ cần một cung vượng toàn ban đều vượng, địa vận lại kéo dài chứ không như cách vượng sơn vượng hướng, nếu sang vận mới mà hướng tinh chuyển vào trung cung thì gọi là nhập tù như vậy phúc đã hết chuyển thành hoạ ngay.

- Nếu phạm vào cách thướng sơn hạ thuỷ tức là sao đương vận ở sơn và hướng bị đảo lộn là cách xấu nên bỏ không dùng hoặc nên dùng kiêm hướng bởi theo Huyền Không thì long thần và sơn thần bị đảo lộn phương vị chủ phá tài tổn đinh , cần phải có cách đảo kỵ long. Nếu được cách phụ mẫu tam ban quái thì rất tốt. Có mấy loại phụ mẫu tam ban như sau. Nếu 3 cung Ly Chấn Càn có các sao hợp thành các bộ 147, 258,369 gọi là Ly cung đả kiếp tức là một vận vượng, vd vận 1 vượng thì cướp được vượng khí của cả 2 vận 4 và 7 và nhìn trên tinh bàn thường thấy khí thông nhau từ quẻ Ly đến trung cung ra qủe khảm, thấy có các cặp sao sinh thành nối liền 3 cung. Tương tự khảm đả kiếp là các bộ sao 147, 258,369 xuất hiện ở 3 cung Khảm Tốn Đoài. Còn 3 cung Cấn Trung và Khôn nếu xuất hiện Tam Ban Quái thì gọi là Tam Ban Xảo Quái. Mức độ tốt lành là Ly Đả Kiếp, Khảm Đả Kiếp rồi đến Tam Ban Xảo Quái. Chú ý là có quẻ tam ban rồi để biến thành phúc phải có giải pháp thiết kế phù hợp cho mối phương vị của quẻ.

- Ngoài thướng sơn hạ thuỷ phải kiểm tra xem tinh bàn có sao nào nhập trung là 5 không, như vậy nếu Ngũ đi thuận thì phạm phục ngâm, đi nghịch phạm phản ngâm (các sao sơn hướng lặp lại sao của vận hoặc đối ngược với sao của vận) chủ khắc hãm xấu không nên dùng.

- Kiểm tra xem tinh bàn ở hướng (rất quan trọng) và ở sơn xem cát hung thế nào, tránh các sao suy tử, sao thoái khí có thể tạm dùng nhưng phải kết hợp với một vài cách tốt khác, nếu không gặp năm có sao thoái khí hoặc tử khí sinh trợ thì hoạ đến. Nếu ở hướng bị phạm phải luận là hao tài, ở sơn là tổn hại quan hệ gia đình và con cái.

- Tránh các bộ sao Lục Thất (Thương kiếm sát), Tam Thất (Xuyên Tâm Sát), Nhị Thất (Đấu Ngưu Sát) ở sơn, hướng, minh đường.

- Kỵ Ngũ Hoàng đại sát : Nếu Ngũ hoàng xuất hiện ở sơn hướng nên tránh vì Ngũ Hoàng là tối độc không thể xâm phạm. Duy có vận 5 Ngũ Hoàng là Chính Quan Mậu Kỷ rất tốt nếu nhập toạ hướng phát sinh phúc lớn hơn hẳn các sao khác bởi quyền lực nó lớn hơn.

- Khi động thổ phải xem có phạm năm Thái Tuế hay không ? Ví dụ năm Tí không nên toạ hướng Tí cùng lắm là Toạ không thể hướng. Nếu xét tinh bàn là cách vượng thì không sợ thái tuế, chỉ sợ hung thì thái tuế làm họa đến mau hơn. Xem thêm cả tam Sát. VD tháng, năm Thân Tí Thìn sát ở 3 phương Tỵ Ngọ Mùi nên tránh động chạm đến 3 phương này. Ngoài ra Huyền Không còn dùng cả Phi Thái Tuế, Ám Kiến (chỉ dùng cho tháng)

- Xem xét địa hình xung quanh đặc biệt sơn thuỷ phối ứng với tinh bàn. Trong đô thị thì là ngã 3 ngã tư, ao hồ, sông ngòi, gò đống, mái nhọn, nghĩa trang, các toà nhà xung quanh phối với những cung xấu trong tinh bàn xem có phạm gì không ? VD một cung càn có sao 5, 9, phương ấy lại có nghĩa trang là rất xấu bởi Ngũ Cửu là cặp sao gây hoạ lớn, gặp nghĩa trang âm khí nhiều tổn hại cho người cha già, nữ trong nhà. Nếu mở cửa phụ, cửa sổ thì càng độc hơn, từ đó có cách trấn yểm ngay kịp thời thì sẽ tránh được điều xấu.

Một thí dụ về Lý khí và hình thế trong huyền không học
Căn nhà được tam ban xảo quái trích trong Trạch Vận Tân Án
Cuối thế kỷ 19, vận 2, ông Trương Hồng Nam ở tại Indonesia là một người từ tay trắng tạo nên sự nghiệp. Nhà ông qui mô hùng tráng như dinh thự của vua chúa, toạ cấn hướng khôn (45 độ) nên là nhà có được tinh bàn tam ban xảo quái (một dạng nhà vào bậc nhất nhì theo huyền không phi tinh).
cửa chính tại cung ly có hướng tinh 3 là sinh khí trong vận 2 và là vượng khí trong vận 3 nên rất tốt
Nhà tuy bị thướng sơn há thuỷ Nhưng vì phía sau có biển và phía trước có núi nên là hợp cách đảo kỵ long. lại thêm vận 2 có phương vị chính thần(cần sơn) là tây nam và phương vị linh thần ( cần thuỷ)là đông bắc. Phía đông bắc nhìn ra biển nên phương vị này trở thành phương vị vượng khí vô cùng. Như vậy trong vận 2 nhà này hấp thụ vượng khí rất mạnh mẽ nên phát triển cũng rất mạnh mẽ.
Đến vận 3, hiệu lực của biển ở phương đông bắc không còn nữa mà ngược lại khí tại hướng ở cung này trở thành thoái khí nên kỵ thuỷ, nhưng cửa chính của nhà vẫn còn mở ở cung vượng khí ( gọi là nhất chính đương quyền) nên vẫn còn tiếp tục phát triển thịnh vượng.
Cuối vận 3 đầu vận 4 khí vượng nhà này đã hết cùng lúc đó chiến tranh cũng chấm dứt ở châu âu nên cao su sụt giá làm các nhà tư bản đấu tư cao su lần lượt phá sản.
Vận 4 Khí của hướng ở đông bắc là tử khí nên càng kỵ thuỷ mà gặp biển nên xui sẻo vô cùng vì thay vì mượn khí của các nguyên khác thì nay bị cướp mất hết. Lại thêm cửa chính hấp thụ thoái khí ở hướng nên vận xui càng nặng. Ông Trương hồng Nam có trong tay một khối lượng hàng cao su tồn kho rất lớn nên chịu hậu quả nặng nề khiến cho tài sản mất hết mà còn lại nợ nần chồng chất nên đau buồn mà chết, gia đình ly tán.

Hướng cửa phòng ngủ và hướng đầu giường ngủ


Lấy tâm phòng, sau đó đưa tinh bàn của căn nhà vào tâm phòng. Cửa mở tại cung có hướng tinh là cát tinh: 1; 4; 6; 8. Nếu mở cửa tại cung có hướng tinh là vượng, sinh tiến khí thì càng tốt ho8n. Thí dụ: vận 8, cửa phòng có hướng tinh là 8 hoặc 9 thì sẽ tốt cho người ở trong phòng này đặc biệt là về tài lộc. Với học sinh thì nên mở cửa tại cung có hướng tinh 4 (chủ về học vấn)
Dưới đây là bài viết của bác BNQ luận về phòng ngủ
Về việc luận cát, hung của phòng ngủ thì ngoài việc dùng phi tinh của cửa phòng kết hợp với niên-nguyệt tinh thì còn cần phải để ý tới những phương vị có thuỷ hoặc động khí ở gần hay chung quanh phòng ngủ như bếp, cầu thang, hồ cá...Nếu những khu vực này lại nằm cùng 1 cung với cửa phòng thì tính chất cát, hung càng tăng thêm rõ rệt. Chẳng hạn như 1 nhà toạ DẬU hướng MÃO, nhập trạch trong vận 7, thì khu vực ĐB có vận tinh 1, sơn tinh 6 và hướng tinh 2. Nếu 1 phòng ngủ có cửa phòng nằm tại khu vực phía ĐB tức bị sao Nhị Hắc chiếu tới thì người ngủ trong phòng hay bị bệnh. Nếu bên ngoài cửa phòng mà còn có thêm bếp thì bệnh càng nặng thêm. Nếu phía TÂY bên cạnh phòng có cầu thang có hướng tinh 3 thì từ cầu thang tới cửa phòng sẽ gặp các số 3-2 tức là bị Đấu Ngưu sát, dễ gặp chuyện bực bội, phiền lòng. Cho nên vấn đề coi vận khí của 1 phòng ngủ cũng khá phức tạp, đòi hỏi nhiều công phu và kinh nghiệm. Đó là chưa kể còn phải coi xem hình dạng hay cấu trúc của căn phòng nữa. Nếu cấu trúc phòng ngủ xấu, không cân xứng hay trần nhà chéo xuống thấp, khiến cho người ngủ cẳm thấy khó chịu, không được thoải mái thì cũng dễ có tai hoạ về tiền bạc, bệnh tật...
Ngoài ra, nếu xem xét kỹ hơn về vị trí phòng ngủ thì nhiều khi còn cần phải phối hợp với Bát tự để xem cho chính xác, chứ không thể dùng mạng ĐÔNG hay TÂY tứ trạch mà xem được. Lấy thí dụ như 1 người nam sinh năm NHÂM DẦN (1962), nếu lấy mệnh thì là TÂY TỨ TRẠCH, nên hợp với 4 hướng TÂY, TÂY NAM, TÂY BẮC và ĐÔNG BẮC. Nhưng nếu giả sử anh ta sinh tháng QUÝ SỬU, ngày NHÂM TÝ, giờ CANH TÝ chẳng hạn, tức là trong ngũ hành của ngày tháng năm sinh có quá nhiều Thuỷ, nên dụng thần của anh ta phải là Hoả và Thổ, còn Kim, Thuỷ là hung thần phải tránh. Cho nên nếu nói người này nên nằm tại những khu vực phía TÂY, TÂY BẮC, ĐÔNG BẮC tức là đưa người ta vào tử địa rồi, vì những phương vị đó đều thuộc hành KIM hoặc có thuỷ nhiều là hung thần cần phải xa lánh. Nếu còn nằm hay quay đầu giuờng về những phía đó, hoặc đi về những hướng đó để làm việc hoặc sinh sống tất sẽ có tai hoạ lớn. Ngược lại, vì người này sinh giữa mùa ĐÔNG, khí hậu hàn lạnh cần có Hoả để sưởi ấm nên phải có Hoả làm dụng thần. Do đó, nếu anh ta nằm ở phía NAM hay quay đầu giường về hướng NAM, hoặc đi về hướng NAM sinh sống, hay có nhà toạ NAM,hướng BẮC thì đại lợi, sẽ gặp nhiều may mắn hay tránh được nhiều tai hoạ hơn những người khác (vì hướng NAM thuộc hành Hoả). Cho nên làm sao có thể dùng ĐÔNG hay TÂY tứ trạch để xác định phương hướng tốt, hung của 1 người được? Rồi cũng lấy người nam sinh năm NHÂM DẦN, nhưng lại sinh tháng BÍNH NGỌ, ngày MẬU TUẤT, giờ MẬU NGỌ thì ngũ hành của người này là Thổ khô, Hoả nóng, nên cần có thuỷ để điều hầu. Do đó nếu nằm ở khu vực phía BẮC hay quay đầu về hướng BẮC...thì lại có lợi (vì hướng BẮC thuộc hành Thuỷ). Nếu nằm ở những khu vực phía TÂY hay TÂY BẮC tuy cũng tạm được nhưng không tốt bằng. Còn nếu nằm tại khu vực TÂY NAM thì sẽ gặp nhiều chuyện rủi ro, tai hoạ (vì TÂY NAM thuộc hành THổ, trong ngũ hành người này đã có quá nhiều Thổ). Nếu cửa phòng tính theo Tiểu thái cực có sao tốt, nhưng tính theo Đại thái cực có sao xấu cũng vẫn tốt. Ngược lại, nếu tính theo Đại thái cực có sao tốt, nhưng theo Tiểu thái cực lại là xấu thì cũng không đến nỗi. Nếu cả Đại và Tiểu thái cực đều xấu thì mới nên dời phòng mà thôi. Còn nếu được cả Đại và Tiểu thái cực đều tốt thì phòng đó đại cát.Cho nên tuy cùng 1 tuổi mà phương hướng sinh sống, hoạt động hay nhà cửa đều khác nhau như vậy, mà nếu dùng Bát trạch để luận phi cung há không phải là đưa nhiều người vào chỗ chết hay sao?
Còn vấn đề đặt ra là những sao vận-sơn-hướng ở 1 cung có ảnh hưởng gì tới khí số của người nằm trong phòng không? Như trường hợp cung CÀN có vận tinh 9, sơn tinh 2 và hướng tinh 5? trả lời là không. Nếu chủ nhà có vấn đề ắt là do nơi cửa hoặc bếp, tuỳ trường hợp của căn nhà mà xác định thôi.
Còn nếu biết được ngày,giờ, tháng, năm sinh của họ thì mới nói tới vấn đề như ai nên nằm phòng nào và đầu giường nên xoay theo hướng nào? Cũng như nên chọn nhà theo hướng nào cho thích hợp. Lấy thí dụ như 1 người có dụng thần là Hoả, thì nên chọn nhà hướng BẮC, tức là sống và làm việc nơi khu vực phía NAM thuộc hành Hoả là đúng với dụng thần. Nhưng vì trong vận 8, các hướng TÝ-QUÝ đều không có vượng khí, nên nếu người này muốn chọn nhà hướng BẮC thì chỉ có nhà hướng NHÂM là thích nghi với cả 2 điều kiện của Phong thuỷ lẫn Bát tự. Đó là phương cách lý tưởng nhất, tức là thoả mãn cả 2 điều kiện Thiên khí (vận số của mình tính theo ngày, tháng, năm sinh) và địa khí (tức Phong thuỷ). Nếu không được thì mới chỉ dùng đến Phong thuỷ không tức là chỉ chọn những nhà có vượng khí đến thôi.
Về những khó khăn gặp phải như khi nghĩ là hướng đó tốt, muốn quay đầu giường về phía đó nhưng lại bị cấu trúc của căn phòng không cho phép để thì rất nhiều người gặp phải. Nếu không có cách nào thay đổi được thì đành chịu, nhưng có thể dùng cách khác như sơn phòng có màu sắc hợp với ngũ hành của dụng thần mà làm tăng lên mức độ tốt đẹp. Như thí dụ nếu dụng thần của là KIM, mà nằm phòng nơi phía ĐÔNG là làm hao tổn dụng thần rồi, nên đương nhiên sẽ có chuyện bất lợi, nếu không về tài chánh thì cũng về sức khoẻ hoặc gia đạo, tuỳ theo dụng thần có ảnh hưởng như thế nào trong Bát tự. Nếu nằm xoay đầu về hướng ĐÔNG BẮC thuộc hành Thổ (nhưng là Thổ ướt vì nằm bên cạnh cung KHẢM, vì thế Thổ của hướng ĐB mới có công năng sinh trợ cho Mộc) thì chỉ tốt phần nào thôi, vì tuy có Thổ sinh cho dụng thần Kim, nhưng cũng có Thuỷ trợ giúp cho Mộc làm tiêu hao dụng thần. Cho nên đúng ra đầu giường phải xoay về hướng TÂY NAM là Thổ khô mới tốt. Nếu không được thì mới quay đầu về những hướng như TÂY hoặc TÂY BẮC thuộc hành KIM để hỗ trợ cho dụng thần khắc MỘC là tốt nhì. Nếu không được nửa thì có thể sơn phòng màu vàng, màu ngà, màu trắng là những màu thuộc các hành Thổ-Kim mà bù đắp lại. Nhưng tốt nhất vẫn là nằm tại phòng ngủ nơi khu vực phía TÂY NAM.

Những cách 1-6, 2-7, 1-4, 6-7 đều đáng kể và phải được đặc biệt chú tâm tới, nhất là nếu chúng lại có ngoại hình hay cấu trúc bên trong ứng hợp, mức độ tốt, xấu sẽ từ đó biểu hiện hoặc gia tăng khốc liệt. các cặp 1-6, 1-4 không bao giờ bị luận là suy tử, chỉ trừ khi bị ngoại hình bên ngoài làm hỏng mà thôi, còn thường thì chúng đều rất tốt đẹp. Cặp 2-7 chỉ tốt nếu chúng là vượng khí, hoặc đi với những khí sinh, vượng là Thổ như 5, 8. Còn nếu không thì cần phải đề phòng. Cặp 6-7 là Giao kiếm Sát thì chỉ trừ lúc 1 trong 2 sao là khí sinh, vượng thì không sao, còn nếu không thì sẽ có vấn đề tranh chấp hay bị trộm cướp hoặc án mạng.
Cũng có thể dùng 1-6, 2-7 để luận Ngũ hành sinh, khắc của cung này, nhưng như đã nói là vẫn phải để ý đến ngoại hình và thiết kế, cũng như động tĩnh của khu vực này trước, sau đó mới tính đến vấn đề Ngũ hành sinh khắc, và vì vậy sẽ có muôn ngàn trường hợp khác nhau, tuy rằng trạch vận căn nhà thì giống nhau. Lấy thí dụ như khu vực này của 1 căn nhà mà có hồ tắm thì 1-6 đắc thế, khu vực này có kim-thuỷ vượng, chủ sinh ra người tài hoa, văn chương cái thế, học hành giỏi dang. Nếu như khu vực này lại có núi thì lúc đó Sơn tinh 2 vượng, nhưng là tử khí nên là cách trong nhà phát sinh quả phụ, người đàn ông trong nhà nếu có giỏi dang cũng yểu chiết, khó thành danh. Nếu chỗ đó có bếp cũng chủ nhân đinh suy bại, gặp năm niên tinh 7 tới hoá hợp thành Hoả tiên thiên 2-7 là Hoả vượng khắc Kim 6, sợ rằng người cha, người chủ gia đình có tai hoạ lớn. Cho nên Huyền Không là biến hoá, muôn hình vạn trạng, chứ không có 1 công thức nhất định tính độ vượng, suy của ngũ hành hoặc phi tinh.
Cặp 3-8/ 8-3 cũng vậy, tuỳ theo địa hình, cấu trúc mà tính chúng là tốt hay xấu trong vận 8. Nhưng thông thường thì chúng là tốt, nhất là nếu nơi đầu hướng có 8, bên mé phải hoặc trái lại có 3.
- 1-6: Hợp hoá thành thuỷ tiên thiên, nếu có nước thì đắc lôi quan thuỷ, lợi cho tài vận và công danh.
- 2-7: Hoà tiên thiên: Chủ bệnh tật nặng và lâu dài, rất có thể bị đau tim và cao máu.
- 7-9: Hoả hậu thiên : Bực bội, thần kinh căng thẳng.
- 4-9: Kim tiên thiên: Nếu ở cung càn thì công danh thuận lợi. học hành thi cử đỗ đạt.
- 3-8: Mộc tiên thiên: Đại lợi cho công danh và tài lộc.
- 9-2: Lưỡng âm hoả: Có chuyện xích mích, cãi cọ.
- 6-7: Thương kiến sát: Chủ về tai nạn thương tật hoặc trộm cướp.
- 2-7: Đấu ngưu sát: Chủ về tranh chấp dẫn đến đánh nhau.
- 3-7: Xuyên tâm sát: Chủ về cãi cọ, bất hoà,...
- Các cung có các sao toàn âm (-) : 2;4;5;7;9. Vdu5: 9-4-7 hoặc 5-9-2; ...Nếu có thuỷ ở đó là nguy hại cho ngưop72i đàn ông trong nhà, nên đoán nếu người chồng không bỏ nhà đi xa thì ắt phải chết sớm .
- Tam ban quái ở trung cung (258; 369; 147): Gia đình hòa thuận, con cái ngoan hiền, có chí,...
- Hỏa khí quá mạnh: Như nhà tọa dậu hướng mão vận 7: Đầu hướng có 2-7(hỏa tiên thiên) lại thêm vận tinh 5 rồi vào trung cung gặp 9-7 (hỏa hậu thiên) cộng với hướng tinh 5 cũng đếu là hỏa . Rồi đến phương tọa gặp 7-9 cũng hỏa hậu thiên thêm hướng tinh 3 là thế mộc sinh hỏa. Mà hỏa thịnh thì khắc kim nên đương nhiên ngực, phổ, cổ họng bị đau. Nhưng nhờ tại cung đông nam và đông bắc có 1-6 hóa hợp thành thủy tiên thiên tạm thời giảm bớt được phần nào hỏa nóng , nếu không sẽ bị ưng thư ngực ( nên biết nhà có hỏa khí quá mạnh thì nếu không bệnh về tim thì cũng bị ung thư. Lại nữa là hỏa nóng thì thổ khô, đất nứt nẻ. Mà bao tử thuộc hành thổ nên bao tử có vấn đề. Còn một yếu tố nữa là nhà có hỏa khí mạnh thì con người bực bội nên trong nhà hay có cải cọ , to tiếng